Kỷ niệm 70 năm ngày Bác ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, trong lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đối với quân đội cần quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng, quán triệt tốt nhiệm vụ quân sự quốc phòng trong tình hình mới...
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt. Phía Bắc, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực lượng tay sai phản động trong hai tổ chức “Việt quốc”, “Việt cách”. Ở phía Nam vĩ tuyến 16 trở vào ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp phát xít Nhật, chúng đã gây hấn ở Nam bộ, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

Trong lúc đó, đất nước còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục; tài chính khó khăn. Mặt khác, những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Tổ quốc lâm nguy!

Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo và sáng suốt phân tích tình thế, chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạnh mới của dân tộc làm cơ sở để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Đồng thời kiên trì, khéo léo hòa hoãn với thực dân Pháp để củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Mặc dù đã ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 với ta, nhưng thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh các hoạt động khiêu khích, như gây xung đột và khiêu khích ở Hải Phòng (11/1946); ngang nhiên chiếm Đà Nẵng, Lạng Sơn (12/1946); ngày 17/12/1946, chúng khiêu khích ở Thủ đô và bắn đại bác vào phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, cầu Long Biên (Hà Nội)… Nghiêm trọng hơn, ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ và giao quyền kiểm soát Thủ đô Hà Nội cho chúng trong vòng 48 giờ.

Trước tình thế nghiêm trọng đó, ngày 18, 19/12/1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Nội), Thường vụ Trung ương Đảng đã họp và đi đến nhận định: Âm mưu của thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược đã chuyển sang một bước mới, thời kỳ hòa hoãn đã qua, khả năng hòa bình không còn nữa; nếu tiếp tục nhân nhượng, thuận theo những điều kiện lúc này của thực dân Pháp thì đồng nghĩa với việc trao độc lập, chủ quyền của ta cho chúng. Nhân dân ta chỉ còn một con đường duy nhất là cầm vũ khí đứng lên.

Trong thời khắc lịch sử đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19/12/1946). Với chưa đầy 200 chữ, nhưng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã chứa đựng một cách đầy đủ mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng, quan điểm, đường lối kháng chiến của Đảng ta; thể hiện tinh thần yêu nước quật khởi, hào hùng của dân tộc ta trước kẻ thù xâm lược; là biểu tượng về sức mạnh của ý chí và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lời kêu gọi của Bác đã nhanh chóng thấm sâu vào tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam, trở thành mệnh lệnh thôi thúc, cổ vũ tinh thần yêu nước của triệu triệu quân dân trong cả nước đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.

Mở đầu lời kêu gọi, bằng lời văn gọn mà chắc nịch và đanh thép, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ dã tâm của thực dân Pháp: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”[1]. Với cách nêu vấn đề chặt chẽ, rõ ràng, lập luận sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên thiện chí của Chính phủ và nhân dân Việt Nam là đã tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh, nhưng vì đối phương chủ trương gây chiến. Bởi vậy, không còn con đường nào khác, buộc nhân dân Việt Nam phải dùng chiến tranh, một cuộc chiến tranh chính nghĩa để chống lại chiến tranh phi nghĩa. Đó chính là quan điểm, lòng quyết tâm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[2].

Trong lời kêu gọi ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày một cách giản dị và hào hùng về đường lối, quan điểm của cuộc chiến tranh toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, với phương châm lâu dài và dựa vào sức mình là chính: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”[3]. Có thể nói, đây là nét độc đáo, đặc sắc trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là lời hiệu triệu, là âm vang, khí phách của một dân tộc anh hùng.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lời kêu gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân, bởi đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt, quyết định sự chiến thắng:

“Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”[4].
Kết thúc lời kêu gọi, Người khẳng định một niềm tin tất thắng thuộc về ta: “Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”[5].

Đáp lại lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng, hào hùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc ta muôn người như một, chung sức đồng lòng nhất tề đứng lên cầm vũ khí với lòng kiên quyết hy sinh và niềm tin chiến thắng. Và đúng như lời tiên đoán của Người, sau chín năm trường kỳ kháng chiến, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với tinh thần quật khởi, quyết chiến quyết thắng còn được dân tộc Việt Nam kế tục và phát huy trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược được kết thúc bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, giang sơn thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện trọn vẹn mong ước cuối cùng của Bác trước lúc đi xa.

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” không chỉ là lời hịch cứu nước vang vọng non sông; là khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của một dân tộc đã bị mất nước, bị nô lệ hơn 80 năm; mà đó còn là một áng hùng văn sáng chói những nét đặc sắc về tư tưởng quân sự và đường lối, phương châm kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta; có tác động cổ vũ, động viên mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tạo thành khối đoàn kết toàn dân vững chắc, nhất tề đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp.

Thực tế lịch sử 70 năm “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Bác vẫn còn nguyên giá trị, đã trở thành một khẩu hiệu hành động, một phương châm sống của mỗi người dân Việt Nam từ trẻ đến già, không chỉ trong thời điểm lịch sử đó mà còn vượt qua thời gian, dẫn dắt dân tộc ta đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ; đồng thời tiếp tục giành những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay, trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước vừa có nhiều thuận lợi, vừa có nhiều diễn biến rất phức tạp, khó lường. Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”[6].

Đây là một nhiệm vụ lịch sử hết sức nặng nề, một thách thức mới hết sức to lớn. Hơn bao giờ hết, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải phát huy cao độ tinh thần yêu nước, quật khởi của Ngày toàn quốc kháng chiến “không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, để có một sự nỗ lực vượt bậc, một tinh thần quật khởi, một ý chí mới “không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, tụt hậu, thua kém bạn bè” để sớm đưa Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu”, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Kỷ niệm 70 năm ngày Bác ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, trong lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đối với quân đội cần quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng, quán triệt tốt nhiệm vụ quân sự quốc phòng trong tình hình mới, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của quân đội, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, đập tan mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Muốn vậy, phải không ngừng xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là một chủ trương lớn của Đảng; đồng thời là giải pháp quan trọng trong chiến lược xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo đảm cho Quân đội luôn ở thế chủ động và giữ vai trò là lực lượng nòng cốt trong thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào quân đội cũng phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, đủ sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Hoài Nam
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt. Phía Bắc, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực lượng tay sai phản động trong hai tổ chức “Việt quốc”, “Việt cách”. Ở phía Nam vĩ tuyến 16 trở vào ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp phát xít Nhật, chúng đã gây hấn ở Nam bộ, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Trong lúc đó, đ

Tin khác cùng chủ đề

Những chính sách mới nổi bật có hiệu lực trong tháng 1 năm 2023
Đây mùa mong ước
Đảng ủy Khối Các cơ quan tỉnh  Khánh Hòa:  Kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng tại Quảng trường 2 tháng 4
Khai mạc Hội báo xuân Giáp Thìn năm 2024
Tưởng niệm 54 năm Tàu C235 và 14 cán bộ, chiến sĩ hy sinh
Kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng (3-3-1959 - 3-3-2024) và 35 năm Ngày Biên phòng toàn dân (3-3-1989 - 3-3-2024)  Xây dựng thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh

Gửi bình luận của bạn