Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định, dân chủ xã hội chủ nghĩa tức là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng của V.I.Lênin về vai trò động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa to lớn đối với quá trình phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam và được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo vào thực tế.

Vận dụng tư tưởng V.I.Lênin về phát huy vai trò động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa
Vận dụng tư tưởng V.I.Lênin về phát huy vai trò động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa
1. Tư tưởng V.I.Lênin về vai trò động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa

V.I.Lênin quan niệm quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử chứ không phải những cá nhân anh hùng hoặc thần thánh nào. Trong mục tiêu của cuộc cách mạng XHCN, dân chủ vừa là các khẩu hiệu chiến đấu, vừa là mục tiêu của cách mạng. Mục tiêu đó phải được thực hiện triệt để nhất dưới CNXH và CNXH cần phải làm tất cả để trả lại vị trí người quyết định lịch sử - tức là người chủ của tiến trình lịch sử - cho nhân dân. V.I.Lênin cho rằng: “Dân chủ là sự thống trị của đa số”(1), trong đó “sự thống trị của đa số” được hiểu là một chế độ xã hội, chứ không phải là sự cai trị, sự áp bức, sự áp đặt...

V.I.Lênin cho rằng, sự ra đời, phát triển của dân chủ XHCN là kết quả tất yếu của cách mạng XHCN, nó trở thành một trong những mục tiêu, động lực của CNXH. Người viết: “Giai cấp vô sản cần có một nền dân chủ… có khả năng trở thành một hình thức của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cũng như trở thành công cụ của cuộc cách mạng đó”(2); “không thể có một chủ nghĩa xã hội thắng lợi mà lại không thực hiện dân chủ hoàn toàn”(3).

V.I.Lênin cho rằng, việc phát huy vai trò động lực của dân chủ XHCN sẽ tạo ra được những điều kiện vật chất và tinh thần để nhân dân được hưởng những quyền đã được ghi nhận trong hiến pháp, pháp luật. Khi nói đến bước đầu tiên của xây dựng chế độ dân chủ XHCN, V.I.Lênin nhấn mạnh rằng: “trọng tâm phải chuyển từ chỗ thừa nhận, về mặt hình thức những quyền tự do… đến chỗ bảo đảm thực tế cho những người  lao động - những người đã lật đổ bọn bóc lột - được hưởng những quyền tự do”(4).

Như vậy, bước đầu tiên xây dựng chế độ dân chủ XHCN không phải là ghi nhận những quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Điều đó nhân loại đã đạt được ở mức độ nhất định trong CNTB. Điều quan trọng đầu tiên của cách mạng XHCN là tạo ra những điều kiện để nhân dân được hưởng và thực hiện được những quyền dân chủ đó trong thực tế.

V.I.Lênin cho rằng, sự ra đời, phát triển của dân chủ XHCN là kết quả tất yếu của cách mạng XHCN, nó trở thành một trong những mục tiêu, động lực của CNXH.

Bên cạnh đó, sức sống của chế độ dân chủ XHCN chính là sự tham gia của đông đảo nhân dân lao động vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội, phát triển thêm những quyền dân chủ cho nhân dân; lôi cuốn nhân dân lao động không chỉ tham gia một cách độc lập vào việc bầu cử, mà cả vào công việc quản lý hằng ngày (quản lý xã hội, quản lý nhà nước - dân chủ tham gia). Chế độ dân chủ XHCN không chỉ ban bố và thực hiện một số quyền công dân như kiểu dân chủ tư sản, mà tạo ra cơ chế sao cho quyền lực của nhân dân là quyền lực tối cao. 

Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng định, dân chủ XHCN tức là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình để quản lý công việc nhà nước. Nhân dân có quyền làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Về giá trị mới này của dân chủ XHCN, V.I.Lênin viết: “lôi cuốn có hệ thống ngày càng nhiều công dân, rồi sau đó là toàn thể công dân vào việc trực tiếp và hàng ngày gánh phần trách nhiệm nặng nề của mình trong công tác quản lý nhà nước”(5).

Dân chủ và CNXH gắn liền với nhau. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của CNXH, sẽ không có CNXH chân chính và CNXH cũng sẽ không đạt được mục tiêu của mình, nếu không coi dân chủ là động lực, không lấy dân chủ làm động lực.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng XHCN và xây dựng CNXH, V.I. Lênin hết sức quan tâm vai trò động lực của dân chủ. Người chỉ ra rằng: “một thiểu số người, tức là đảng, không thể thực hiện chủ nghĩa xã hội được. Chỉ có hàng chục triệu người, khi đã học được cách tự mình thiết lập chủ nghĩa xã hội, thì mới thực hiện được chủ nghĩa xã hội”(6); “tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã hội mới… Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống. Tính chất máy móc hành chính và quan liêu không dung hợp được với tinh thần của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”(7).

Vì vậy, V.I.Lênin lưu ý: “Không nên sợ nhân dân. Sự giải quyết của đa số công nhân và nông dân không phải là trạng thái vô chính phủ. Đó là điều duy nhất có khả năng đảm bảo cho chế độ dân chủ nói chung, và cho việc thành công trong sự tìm tòi những biện pháp thích đáng để thoát khỏi sự sụp đổ về kinh tế, nói riêng”(8). Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Chỉ có người nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền”(9).

2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng V.I.Lênin về phát huy vai trò động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa

Trong cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức chú ý đến vai trò động lực của dân chủ. Người cho rằng: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(10). Tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, của dân chủ, coi dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn của công việc trên con đường phát triển, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên câu nói của các đồng chí ở Quảng Bình rằng “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong(11); rằng, dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ “biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(12). Tin nhân dân, tin vào sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán các biểu hiện: xa dân, khinh dân, sợ dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không thương yêu nhân dân. Những biểu hiện đó là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, dẫn đến kết quả là “hỏng việc”.

Trong công cuộc đổi mới, nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có lý luận về dân chủ XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc trong nhận diện, tạo lập và phát huy các loại động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH, trong đó dân chủ XHCN được xác định là một trong những động lực cơ bản. Việc mở rộng dân chủ XHCN trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân (động lực dân chủ) có vai trò đặc biệt trong việc tạo nên động lực tổng hợp để đổi mới thành công.

Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh chủ trương phát huy dân chủ để tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động(13). Phát huy tinh thần của Đại hội VI, các kỳ đại hội tiếp theo của Đảng cũng nhấn mạnh sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Trong công cuộc đổi mới, Đảng luôn nhấn mạnh nhân dân làm chủ là bản chất của CNXH; kiên định nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; không ngừng thúc đẩy đổi mới chính trị, xây dựng nền dân chủ XHCN và đã đạt được những thành tựu to lớn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(14).

Về động lực dân chủ chính trị, Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Theo đó, phải đổi mới, dân chủ hóa tổ chức và hoạt động của Nhà nước, thực hành dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức, hoạt động và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, có phân công, phối hợp, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm làm tốt vai trò nòng cốt để nhân dân làm chủkết hợp dân chủ đại diện với dân chủ trực tiếp, kết hợp dân chủ từ dưới lên với dân chủ từ trên xuống, dân chủ trong Đảng với dân chủ trong xã hội nhằm xây dựng “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có(15). Bởi, đây là “mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu(16).

Về động lực dân chủ kinh tế, Nhà nước pháp quyền XHCN quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường bảo đảm đúng định hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế luôn gắn với bảo đảm công bằng, thực hiện tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa, phát triển con người, nhằm mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế ngày càng mở rộng. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Công bằng trong phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Quá trình mở rộng dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ chính trị, thực hành ngày càng rộng rãi và thực chất quyền lực chính trị của nhân dân, thông qua cả phương thức ủy quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp.

Về động lực dân chủ văn hóa, xã hội, thực hiện dân chủ trong văn hóa được coi là phương thức cơ bản để “văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”(17). Bảo vệ quyền con người, bảo đảm an sinh xã hội, nhất là bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền chính trị, dân sự, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm thiểu số hoặc yếu thế, như người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số. Công tác tuyên truyền, giáo dục, nghiên cứu về quyền con người có bước phát triển tích cực. Nhận thức về quyền con người được nâng cao hơn. Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người được đẩy mạnh. Đấu tranh phản bác kịp thời và hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, việc phát huy vai trò động lực của dân chủ XHCNở nước ta trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thật sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”(18). Không những thế, bốn nguy cơ mà Đảng nêu lên từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII không những vẫn tồn tại mà có mặt còn diễn biến phức tạp hơn. Gần đây, tình trạng sợ trách nhiệmkhông dám hành động vì lợi ích chung trong một bộ phận cán bộ là rất đáng lo ngại.

3. Giải pháp phát huy mạnh mẽ vai trò động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng V.I.Lênin

Một là, nhận thức đầy đủ và sâu sắc tư tưởng V.I.Lêninvề dân chủ XHCN và phát huy dân chủ XHCN

Việc nghiên cứu và nhận thức tư tưởng của V.I.Lênin về phát huy vai trò động lực của dân chủ XHCN phải đặt trong chỉnh thể lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN, về động lực của CNXH, về CNXH và con đường đi lên CNXH để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đất nước đang đặt ra.

Hai là, xác định rõ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước để nhân dân làm chủ

Đảng đề ra đường lối, chủ trương, Nhà nước thể chế hóa, ban hành chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý cho việc bảo đảm, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, cần khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(19). Điều đó đòi hỏi phải phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức. Xây dựng Nhà nước để thật sự là cơ quan “đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”(20).

Ba là, đa dạng hóa hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội

Nhân dân thực hiện quyền làm chủ không chỉ bằng Nhà nước, mà còn thông qua các tổ chức của mình. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức thành viên có vai trò và nghĩa vụ xác định trong hệ thống chính trị; là những thiết chế có vai trò quan trọng trong thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là môi trường, là trường học để nâng cao ý thức, năng lực và nhu cầu dân chủ cho các tầng lớp nhân dân.

Để thật sự là những thiết chế để các tầng lớp nhân dân tham gia công việc nhà nước, giám sát hoạt động của Nhà nước, các tổ chức này cần khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, “nhà nước hóa” trong tổ chức và hoạt động; đa dạng hóa phương thức hoạt động phù hợp với tính chất quần chúng và những biến động đa dạng về cơ cấu giai cấp - xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

_________________

Ngày nhận bài: 30-10-2023; Ngày bình duyệt: 20-12-2023; Ngày duyệt đăng: 05-1-2024.

(1), (8) V.I.Lênin: Toàn tập, t.32, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.515, 24.

(2) V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Sđd, 2005, tr 321-322.

(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.27, Sđd, 2005, tr.324.

(4), (5) V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Sđd, 2006, tr.92, 93.

(6), (7), (9) V.I.Lênin: Toàn tập, t.35, Sđd, 2006, tr.68, 64, 68-69.

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.453.

(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.280.

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.335.

(13) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr.362.

(14), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.84-85, 126.

(15), (16), (20) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.21-22, 28, 28-29.

(18), (19) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.173, 88-89, 173.

ThS NGUYỄN THỊ KIM HOA
Trường Đại học Khánh Hòa

 

 

1. Tư tưởng V.I.Lênin về vai trò động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa V.I.Lênin quan niệm quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử chứ không phải những cá nhân anh hùng hoặc thần thánh nào. Trong mục tiêu của cuộc cách mạng XHCN, dân chủ vừa là các khẩu hiệu chiến đấu, vừa là mục tiêu của cách mạng. Mục tiêu đó phải được thực hiện triệt để nhất dưới CNXH và CNXH cần phải làm tất cả để trả lại vị trí người quyết định lịch sử - tức là người chủ của tiến trình lịch sử - cho nhân dân. V.I.Lênin cho rằng: “Dân chủ là sự thống trị của đa số”(1), trong đó “sự thống trị của đa số” được hiểu là một chế độ xã hội, chứ không phải là sự cai trị, sự áp bức, sự áp đặt... V.I.Lê

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn