Sự bổ sung, phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác trong việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  và sự vận dụng trong xây dựng và phát triển tỉnh Khánh Hòa hiện nay
Sự bổ sung, phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác trong việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng trong xây dựng và phát triển tỉnh Khánh Hòa hiện nay

1. Sự bổ sung, phát triển, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác, trong  việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 

Thực tiễn cách mạng của các Đảng cộng sản và công nhân thế giới cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy, vấn đề nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần bổ sung, phát triển Chủ nghĩa Mác làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức, đồng thời cũng là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam và là cơ sở để giải quyết các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn hiện nay.

Sáng tạo là thuộc tính bản chất, quy định sức sống bền vững của Chủ nghĩa Mác. Sinh thời, Ph.Ăngghen luôn nhắc nhở những người Cộng sản phải hết sức sáng tạo khi áp dụng những nguyên lý chung của Chủ nghĩa Mác vào từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đồng thời biết tổng kết, khái quát những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống, để bổ sung, phát triển hệ thống lý luận khoa học, mài sắc vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng. Lênin cũng nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”[1]

Sự thắng lợi, phát triển rực rỡ và sau đó là sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô trước đây là minh chứng cho sự thành công và thất bại của việc nhận thức, vận dụng các nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn. Chừng nào và ở đâu Đảng Cộng sản nhận thức Chủ nghĩa Mác đúng đắn, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mà trong đó cách mạng đang vận động, để đề ra các chủ trương chiến lược, sách lược phù hợp với mục tiêu xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội, chừng đó và ở đó cách mạng phát triển và thu được thắng lợi. Ngược lại thì cách mạng sẽ lâm vào thoái trào và thất bại.

 Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng đó là:

Nói về những đặc trưng mới của chủ nghĩa xã hội

Khi nói về những đặc trưng của xã hội cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bị thủ tiêu thay vào đó là sở hữu toàn xã hội; Sự phân chia giai cấp bị thủ tiêu, do đó, sự thống trị của một giai cấp này đối với các giai cấp khác cũng bị thủ tiêu và nhà nước, với tư cách là công cụ thống trị sẽ không còn nữa; Sự phân công lao động mang tính giai cấp bị thủ tiêu, do đó không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn…

Trên cơ sở những nguyên lý chung mà C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xuất nhiều tư tưởng mới về chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) xác định 6 đặc trưng, trong cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định và bổ sung thành 8 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bổ sung thêm 2 đặc trưng đó là: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạocó quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Như vậy Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có một số điểm mới bổ sung và phát triển.

Những đặc trưng vừa nêu trên thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trong việc xác lập những đường nét cơ bản mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam mà nhân dân ta đang xây dựng để từng bước hiện thực hóa đặc trưng, mô hình đó trong thực tiễn cuộc sống.

Sự vận động và biến đổi của thế giới hiện nay,  của thực tiễn xây dựng CNXH sẽ tiếp tục cung cấp thêm những cứ liệu mới để bổ sung cho nhận thức của Đảng ta về mô hình CNXH và con đường để thực hiện mô hình đó ở Việt Nam.

Nói về các mối quan hệ lớn (chủ yếu) trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Giai đoạn những năm sau đổi mới 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam tập trung vào nhận thức và giải quyết năm mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới với ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn từ 1996-2006 các mối quan hệ lớn được gắn với nhận thức trong tổng thể các vấn đề lớn, như đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.  Rõ ràng sự trưởng thành về tư duy của Đảng đã có những nhận thức mới về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phát triển văn hóa; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường…

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra tám mối quan hệ lớn. Văn kiện Đại hội XI (năm 2011) nêu yêu cầu nhận thức và giải quyết cả tám mối quan hệ lớn này trong tổng thể lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII của Đảng (năm 2016), tiếp tục khẳng định lại tám mối quan hệ lớn đã được nhận thức và bổ sung thêm một mối quan hệ lớn (mối quan hệ lớn thứ chín), đó là mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

Trên tinh thần tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định lại chín mối quan hệ lớn đã được đề ra tại Đại hội XII và bổ sung thêm một mỗi quan hệ lớn (thứ mười), đó là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định mười mối quan hệ lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần xác định rõ hơn những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, cũng như tính quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tạo ra động lực của đổi mới và phát triển toàn diện đất nước trong thời kỳ mới. Nghĩa là mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện qua các kỳ Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới.

Quan niệm mới về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Theo quan niệm của Mác-Ăngghen  thì động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, CNH-HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, xây dựng củng cố và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN...

Ngày nay với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Đó chính là động lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai. Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Xây dựng lý luận sáng tạo, đột phá về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường tối ưu để xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường

Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.

Đặc trưng về sở hữu: Có nhiều hình thức sở hữu, bao gồm cả công hữu và tư hữu.

Đặc trưng về kết cấu kinh tế: Nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế. có thể khẳng định rằng đây được coi như phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển.

Đặc trưng về phân phối: Phân phối theo lao động và các yếu tố sản xuất khác, dựa trên nguyên tắc cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước.

Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động. Đồng thời thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập. Đã hình thành hệ thống pháp luật về kinh tế khá đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt động. Vai trò của Nhà nước đã được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, về cơ bản, đã thiết lập được khung pháp luật và bộ máy thực thi hiệu quả hơn.

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là vấn đề mang tính tất yếu của công cuộc đổi mới mà còn là sự đúng đắn về nguyên tắc, quan điểm của Ðảng, đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước; không chỉ là nền móng bảo đảm độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh mà còn là điều kiện căn bản và môi trường rộng mở tối ưu bảo đảm cho sự phát triển năng động, mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và vì mục tiêu tiến bộ xã hội, xét trên cả hai bình diện đối nội và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, hiệu quả. Ðó cũng là sự thể hiện ưu thế tuyệt đối của chế độ xã hội ta khi xem kinh tế thị trường chỉ là phương tiện, công cụ hữu hiệu để xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phục vụ nhân dân so với các chế độ xã hội khác cũng phát triển kinh tế thị trường.

2. Vận dụng nội dung trên trong xây dựng và phát triển tỉnh Khánh Hòa hiện nay.

Nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 21/3/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/01/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045  và Chương trình hành động số 30-CTr/TU ngày 23/02/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/01/2022 của Bộ Chính trị, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 1165/QĐ-UBND triển khai Chương trình hành động của Chính phủ và Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Trong suốt chiều dài lịch sử gần 370 năm, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc như yêu nước, đoàn kết, cần cù, dũng cảm, nghĩa tình,... Khánh Hòa cùng cả nước giành được nhiều thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng quê hương. Khánh Hòa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Tiềm lực, vị thế và uy tín của tỉnh không ngừng được nâng cao. Khánh Hòa đang từng bước trở thành một cực tăng trưởng trong khu vực, một trong những trung tâm kinh tế và trung tâm du lịch lớn của cả nước. Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa luôn kiên định với phương hướng, mục tiêu đã đặt ra, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương trong từng giai đoạn phát triển.

Gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã gặt hái được những thành tựu hết sức to lớn và rất đáng tự hào, làm cho kinh tế - xã hội của tỉnh chuyển biến theo hướng tích cực, có ý nghĩa thúc đẩy phát triển vùng, góp phần với cả nước để thực hiện thành công nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Với những lợi thế và tiềm năng sẵn có, nhất là lợi thế về biển, Khánh Hòa đã có nhiều nỗ lực khai thác và phát huy tương đối tốt cho phát triển kinh tế - xã hội, đạt được một số chỉ tiêu đặt ra, trở thành trung tâm du lịch biển quốc gia, có thương hiệu quốc tế, cụ thể trong quý I năm 2024, tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, kinh tế của tỉnh tiếp tục phát triển, nhiều chỉ tiêu kinh tế tăng trưởng 2 con số, nổi bật là GRDP của tỉnh tăng 12,4%, đứng thứ 4 cả nước (sau các tỉnh Bắc Giang, Trà Vinh, Thanh Hóa). Bên cạnh đó, công tác giảm nghèo, an sinh xã hội, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan tâm bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, quốc phòng được giữ vững.

Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị năm 2023, phương hướng năm 2024 và đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 55 của Quốc hội và có nhiều kết luận quan trọng tại hội nghị. Với sự khẩn trương và nỗ lực, tỉnh đã được thông qua các quy hoạch xây dựng quan trọng thuộc thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ như: Quy hoạch chung đô thị mới Cam Lâm đến năm 2045; Điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Nha Trang đến năm 2040. Cũng trong quý I, tỉnh đã tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 100 năm xây dựng và phát triển thành phố Nha Trang, 15 năm Nha Trang được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Khánh Hòa; khởi công xây dựng trụ sở các cơ quan tỉnh; động thổ xây dựng trụ sở Trung tâm hành chính của thành phố Nha Trang, phê duyệt Đề án Chuyển đổi xanh, tăng trưởng xanh thành phố Nha Trang; đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, xúc tiến đầu tư với các địa phương trong và ngoài nước; tổ chức Diễn đàn chính sách địa phương lần thứ 1 với chủ đề phát triển nguồn nhân lực… Đây là những công việc rất có ý nghĩa, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hướng tới mục tiêu đưa Khánh Hòa phát triển bứt phá trong thời gian tới.

Trong quý I năm2024, kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển và đạt nhiều kết quả nổi bật. Cụ thể, GRDP của tỉnh tăng 12,4%, đứng thứ 4 cả nước; chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 36,97%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 30.203 tỷ đồng, tăng 17% so cùng kỳ; doanh thu du lịch ước đạt 11.608 tỷ đồng, tăng 159,2% so với cùng kỳ, với 2,2 triệu khách lưu trú, trong đó có 1,25 triệu lượt khách quốc tế, tăng 5,2 lần so với cùng kỳ. Thu ngân sách nhà nước đến ngày 1-4-2024 đạt 4.767 tỷ đồng, bằng 28,57% dự toán; tổng vốn đầu tư phát triển xã hội ước đạt 14.878,7 tỷ đồng, tăng 12,5% so với cùng kỳ...

Giai đoạn 2016 - 2020, quy mô GRDP của Khánh Hòa xếp thứ 24/63 tỉnh, thành phố trong cả nước (trong đó, quy mô ngành dịch vụ xếp thứ 12/63), xếp thứ 4/14 tỉnh, thành phố thuộc vùng khu vực miền Trung (quy mô ngành dịch vụ xếp thứ 4/14), xếp thứ 3/8 tỉnh, thành phố khu vực duyên hải Nam Trung Bộ. Hệ thống các đô thị trên địa bàn tỉnh từng bước được đầu tư đồng bộ theo hướng văn minh, hiện đại; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp; phát triển các ngành dịch vụ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; thu nhập bình quân đầu người tăng và không ngừng chăm lo sức khỏe, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; chất lượng giáo dục - đào tạo tăng lên, khoa học - công nghệ được quan tâm…”[2]

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Khánh Hòa cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh hiện có. Công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị còn một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên thời gian qua đã ảnh hưởng đến uy tín của cấp ủy, chính quyền địa phương, gây bức xúc trong xã hội. Chất lượng cuộc sống của nhân dân đã được cải thiện, song chưa đồng đều tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị còn một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.  Đây là những thách thức không nhỏ đối với Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh.

Nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, trong thời gian tới, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa tiếp tục kiên định với phương hướng, mục tiêu đã đặt ra, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 21/3/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/01/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045  và Chương trình hành động số 30-CTr/TU ngày 23/02/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/01/2022 của Bộ Chính trị, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 1165/QĐ-UBND triển khai Chương trình hành động của Chính phủ và Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Cụ thể trong nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã đề ra phương hướng mục tiêu chung là: “Tập trung xây dựng tỉnh Khánh Hòa ngày càng giàu đẹp, trở thành trung tâm kinh tế - du lịch, khoa học và công nghệ, trung tâm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, kinh tế du lịch và chăm sóc sức khỏe nhân dân của vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Tây nguyên và của cả nước[3]. Mục tiêu cụ thể: “Đến năm 2025: Khánh Hòa trở thành trung tâm kinh tế biển, trung tâm du lịch, dịch vụ lớn của cả nước. Đến năm 2030: Khánh Hòa phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, trở thành đô thị trực thuộc Trung ương. Đến năm 2045: Khánh Hòa trở thành địa phương phát triển hiện đại; thu nhập bình quân của người dân Khánh Hòa thuộc nhóm các tỉnh, thành phố cao nhất cả nước[4].

Để thực hiện mục tiêu đó, trong thời gian tới tỉnh Khánh Hòa cần chú trọng một số vấn đề sau:

Thứ nhất, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh giúp Đảng có mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, nhân lên sức mạnh của toàn Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, khát vọng phát triển vì một Việt Nam hùng cường. Từ đó, có thể khẳng định, tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là yêu cầu quan trọng hàng đầu, là đòi hỏi tất yếu trong tiến trình xây dựng và phát triển tỉnh nhà, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tính đồng bộ, sự phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đưa tỉnh Khánh Hòa phát triển nhanh, bền vững

Thứ hai, tập trung xây dựng và thực hiện tốt công tác lập quy hoạch và quản lý quy hoạch, nhất là Quy hoạch tỉnh Khánh Hòa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 phải có tầm nhìn dài hạn, bảo đảm hiệu quả tổng thể, phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch khu vực Nam Trung Bộ. Tỉnh sẽ phát triển các vùng kinh tế - xã hội theo hướng: Phát triển đột phá 3 vùng trọng điểm là khu vực vịnh Vân Phong, TP. Nha Trang, khu vực vịnh Cam Ranh; phát triển nhanh và bền vững vùng đồng bằng, có vai trò hỗ trợ các vùng trọng điểm; phát triển nhanh và bền vững vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, gắn với phát huy bản sắc văn hóa, giá trị tài nguyên bản địa, có vai trò đảm bảo an ninh môi trường sinh thái, an ninh nguồn nước, đại đoàn kết các dân tộc.

Thứ ba, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động, nâng cao sức cạnh tranh các ngành thế mạnh, tiềm năng, trong đó lựa chọn khoa học và công nghệ hiện đại là động lực tăng trưởng và dẫn dắt quá trình tái cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa dạng hóa, gia tăng giá trị và hiệu quả, phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế biển, trong đó đột phá vào phát triển đô thị ven biển, dịch vụ logistics, công nghiệp năng lượng, kinh tế số.

Thứ tư, quan tâm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hệ thống giao thông vận tải đồng bộ, hiện đại; phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng số làm cơ sở để Khánh Hòa phát huy vai trò là trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ chính ra Biển Đông, có vai trò trung tâm kết nối vùng Tây Nguyên với duyên hải Nam Trung Bộ, các vùng, miền trong cả nước và quốc tế. Cùng với đó, tăng cường hợp tác, liên kết với các tỉnh trong khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, các tỉnh, thành phố khác trong cả nước và quốc tế.

Thứ năm, toàn tỉnh nỗ lực thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, trong đó tập trung nâng cao thứ hạng các chỉ số quản trị phát triển địa phương; tranh thủ và sử dụng hiệu quả nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách Trung ương theo định hướng “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”.

Thứ sáu, tập trung phát triển nguồn lực con người và khoa học - công nghệ; tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, giữ vững chủ quyền quốc gia; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Thứ bảy, phát huy dân chủ XHCN, ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Một trong những nhiệm vụ bao trùm, quan trọng hàng đầu là tiếp tục xây dựng và tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp Nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng và hành động. Cần động viên, phát huy tốt hơn nữa vai trò đoàn kết các giai tầng, nêu cao vai trò của các cá nhân tiêu biểu trong các giới đồng bào, các dân tộc, tôn giáo... Tăng cường phát huy dân chủ, trao đổi, bàn bạc, bảo đảm sự bình đẳng, tôn trọng, tinh thần thân ái, thông cảm lẫn nhau; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần, giai cấp; chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc để đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội, đóng góp trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh nhà.

Thứ tám, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Trong thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo... Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao, tạo ra những tiền đề, động lực quan trọng, môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển tỉnh nhà. Tuy nhiên bên cạnh đó, đất nước nói chung và tỉnh Khánh Hòa nói riêng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết với nhau tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình”, chống phá với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, tính chất ngày càng quyết liệt, công khai, trực diện hơn.

 Th.s Dương Ánh Đào

Khoa Lý luận cơ sở, Trường Chính trị tỉnh Khánh Hòa

 [1] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, tập 4, tr .232.

[2] Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2020 – 2025

 [3] Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2020-2025, tr.184.

[4] Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2020-2025, tr.184, 185.

 

 

1. Sự bổ sung, phát triển, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác, trong  việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  Thực tiễn cách mạng của các Đảng cộng sản và công nhân thế giới cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy, vấn đề nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần bổ sung, phát triển Chủ nghĩa Mác làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức, đồng thời cũng là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam và là cơ sở để giải quyết các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn hiện nay. Sáng tạo là thuộc tính bản chất, quy định sức sống bền vững của Chủ nghĩa Mác. Sinh thời, Ph.Ăngghen luôn nhắc nhở những người Cộng sản phải hết sức sáng tạo khi áp dụng những nguyên lý chung c

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn