Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống của nông dân luôn chiếm vị trí quan trọng trong các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước. Trải qua các kỳ đại hội, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn ngày càng được Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn, từ đó đề ra những định hướng đúng đắn, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Bài viết góp phần làm rõ quá trình nhận thức của Đảng, đồng thời khẳng định một số kết quả và kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn giai đoạn 1986 - 2024.

Quan điểm, chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ đổi mới: Một số kết quả và kinh nghiệm
Quan điểm, chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ đổi mới: Một số kết quả và kinh nghiệm

1. Đảng về nông nghiệp, nông dân, Quan điểm, chủ trương của nông thôn (1986 - 2024)

Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã thẳng thắn khẳng định một trong những hạn chế, khuyết điểm của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng là: “chúng ta đã không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V. Nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích”1. Trên cơ sở đó, Đại hội xác định, “phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý”2; “phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”3; đồng thời tiếp tục làm rõ quan điểm của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (năm 1982) khi đặt nông nghiệp ở vị trí quan trọng hàng đầu: “Yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, về nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của nông nghiệp”4. Phương hướng cơ bản phát triển nông nghiệp là đưa nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn, nhằm tăng nhanh khối lượng và tỷ suất hàng hóa nông sản. Theo đó, nông nghiệp phải được ưu tiên đáp ứng những nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, vật tư, lao động kỹ thuật; đồng thời, những nguồn đầu tư đó phải được sử dụng có hiệu quả… “Phương châm phát triển nông nghiệp là kết hợp chuyên môn hóa với phát triển toàn diện, cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, lúa và màu, cây lương thực và cây công nghiệp”5. Những quan điểm trên không chỉ cho thấy tính đúng đắn, mà còn là bước cụ thể hóa nhận thức của Đảng tại Đại hội V.

Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) nêu quan điểm: “Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội”6. Cụ thể hóa nhận thức của Đảng, ngày 10/6/1993, Hội nghị Trung ương 5 khóa VII ban hành Nghị quyết số 05-NQ/HNTW về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Theo đó, trên cơ sở đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới, Nghị quyết xác định mục tiêu tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn; đồng thời, đề ra những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn giàu mạnh, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Nghị quyết khẳng định: “Đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu”7.

Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội… Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã được hoàn thành về cơ bản; nước ta chuyển sang một thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”8. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) khẳng định: “Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”9. Đây được xem là nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm cuối thập kỷ 90.

Tháng 11/1998, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó khẳng định: “Coi trọng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”10. Đồng thời, chủ trương tiếp tục khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn; đổi mới các chính sách về đất đai, khoa học và công nghệ; đầu tư, tín dụng và thị trường; chính sách xã hội, nhằm đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: “Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn11; đồng thời, xác định định hướng phát triển nông nghiệp trong giai đoạn 2001 - 2010: (1) Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm, thu hút nhiều lao động ở nông thôn; (2) Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp; (3) Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin; (4) Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thủy lợi ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, bảo đảm tưới, tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nông dân; (5) Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn12.

Cụ thể hóa nhận thức của Đảng tại Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 18/3/2002 về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 - nghị quyết chuyên đề đầu tiên về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Điểm mới của Nghị quyết là đã xác định rõ nội hàm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Theo đó, khẳng định: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Đồng thời, phải kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội, xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn13.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) nhấn mạnh quan điểm: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”14. Trước những thời cơ, thách thức khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); đồng thời, nhằm cụ thể hóa quan điểm của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, ngày 05/8/2008, Hội nghị Trung ương 7 khóa X ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn - văn kiện đầu tiên của Đảng đề cập toàn diện ba lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Theo đó, Nghị quyết chỉ rõ: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”15. Đồng thời, yêu cầu các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế; là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Bên cạnh đó, Nghị quyết còn làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, coi “nông dân là chủ thể của quá trình phát triển; xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt16.

Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) chủ trương “Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới”17; “thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn… Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, gắn sản xuất với chế biến và thị trường, mở rộng xuất khẩu”18.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) khẳng định mục tiêu: “Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân”19. Đồng thời nhấn mạnh: “tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, giá trị gia tăng cao, bảo đảm các tiêu chuẩn theo yêu cầu xuất khẩu, có khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu… Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tiêu chí xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc thù từng vùng”20.

Kế thừa quan điểm của các kỳ đại hội trước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) chủ trương: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”21. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội XIII, ngày 16/6/2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó nêu rõ vị trí, vai trò của mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”22; khẳng định vai trò to lớn của nông dân đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn: “Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới”23; bổ sung các tiêu chí xây dựng giai cấp nông dân; xác định lợi thế và vai trò đặc biệt quan trọng của nông nghiệp: “Nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế”24. Đồng thời, Nghị quyết cũng xác định những tiêu chí và quy hoạch cụ thể về nông thôn: “Xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; môi trường xanh, sạch, đẹp; đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm”25; khẳng định “phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn là trách nhiệm, nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng”26. Qua đó cho thấy nhận thức mới của Đảng về vị trí, vai quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế nói chung.

Có thể nói, sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước (1986 - 2024), nhận thức của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày càng sâu sắc hơn, khẳng định tính đúng đắn và sự nhạy bén, linh hoạt của Đảng trước yêu cầu của thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, góp phần làm sáng tỏ hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

2. Một số kết quả và kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nhà nước đã ban hành hệ thống chính sách, pháp luật về lĩnh vực này. Theo đó, Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình, đề án và cơ chế, chính sách, trong đó tập trung và nổi bật là Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững và Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.

Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững đất nước. Cụ thể:

Một là, nông nghiệp tăng trưởng nhanh, ổn định trong một thời gian dài, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, góp phần quan trọng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát huy lợi thế so sánh, thích ứng với biến đổi khí hậu và ứng dụng khoa học và công nghệ. Cơ giới hóa trong nông nghiệp được áp dụng ngày càng rộng rãi, số lượng, chủng loại máy móc, thiết bị tăng nhanh. Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành Nông nghiệp năm 2023 ước đạt 3,83%27, cao nhất trong nhiều năm gần đây.

Hai là, phong trào xây dựng nông thôn mới đã đáp ứng nguyện vọng của người dân nông thôn, trở thành phong trào mạnh mẽ, lan rộng khắp cả nước, ngày càng thu hút được sự tham gia đông đảo của cộng đồng, xã hội. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở nông nghiệp, nông thôn được đầu tư nâng cấp và từng bước hiện đại hóa, kết nối với đô thị, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, đời sống dân sinh, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tính đến hết năm 2023, cả nước có khoảng 6.370/8.167 xã (chiếm 78%) đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 1.612 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 256 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Có 270 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới28. Thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu gia tăng.

Ba là, trình độ học vấn của nông dân nước ta từng bước được nâng cao; tư duy sản xuất, kinh doanh nông nghiệp không ngừng đổi mới, dần thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nông dân đã phát huy tốt hơn vai trò là chủ thể, tích cực tham gia hợp tác, liên kết, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế, khôi phục và phát triển ngành, nghề nông thôn, xây dựng nông thôn mới, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội29.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn còn một số hạn chế. Nông nghiệp phát triển thiếu bền vững, năng suất lao động thấp. Nông thôn phát triển chưa đồng đều, kết nối nông thôn - đô thị yếu; kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; văn hóa, xã hội nông thôn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc30. Trình độ khoa học và công nghệ trong một số lĩnh vực còn thấp, đào tạo nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thu nhập và đời sống của phần lớn nông dân còn thấp, bấp bênh; có nơi tỷ lệ hộ nghèo còn cao31. Quản lý tài nguyên, thích ứng với biến đổi khí hậu còn nhiều hạn chế; ô nhiễm môi trường tại nhiều nơi có chiều hướng gia tăng32...

Thực tiễn quá trình lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã để lại những kinh nghiệm quan trọng:

Một là, yếu tố quan trọng góp phần làm nên những thành tựu trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn thời gian qua chính là vai trò, ý thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Hai là, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được tiến hành đồng bộ; phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Ba là, có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho nông dân và người dân nông thôn phát huy vai trò là chủ thể trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Bốn là, các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải bám sát thực tiễn, gắn với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người dân.

Năm là, đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ tiến bộ khoa học và công nghệ, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thị trường nông sản, thị trường lao động.

Sáu là, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân rộng các điển hình tiên tiến cũng như khắc phục những hạn chế, bất cập, tháo gỡ các vướng mắc còn tồn tại liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Có thể khẳng định, sau gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước, nhận thức của Đảng ta về vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với sự phát triển của đất nước ngày càng phát triển; đóng góp của nông nghiệp vào nền kinh tế ngày càng tăng, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân từng bước được nâng cao, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi theo hướng văn minh, hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới, Đảng cần tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện nhận thức về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm hiện thực hóa mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa33.


1, 2, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 355, 380, 382.

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,t. 47, 381.

6, 7, 10, 13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tậpSđd, t. 51, tr. 91-92; t. 52, tr. 701; t. 57, tr. 534-535;

t. 61, tr. 276-278;t. 65, tr. 192.

8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,t. 55, tr. 356, 371.

11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 60, tr. 185, 245-248.

15, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,t. 67, tr. 827.

17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 195, 196.

19, 20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 281, 281-283.

21, 33. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. I, tr. 124, 112.

22, 23, 24, 25, 26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII,

Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 92- 93, 93, 94, 95, 96.

27. Hà Văn: Nông nghiệp tăng trưởng cao nhất trong nhiều năm, thặng dư thương mại kỷ lục, https://baochinhphu.vn.

28. Bảo Nhi: Năm 2023, cả nước có khoảng 6.370 xã đạt chuẩn nông thôn mới, http://tapchinongnghiep.vn.

29. Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

30, 31, 32. Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 140-141, 142-143, 144.

ThS. ĐÀO DUY TÙNG

Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Đảng về nông nghiệp, nông dân, Quan điểm, chủ trương của nông thôn (1986 - 2024) Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã thẳng thắn khẳng định một trong những hạn chế, khuyết điểm của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng là: “chúng ta đã không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V. Nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích”1. Trên cơ sở đó, Đại hội xác định, “phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý”2; “p

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn