Bài viết khái quát sự phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nhấn mạnh những nội dung mới tại Nghị quyết số 27-NQTW; từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm các đặc trưng này trong quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Hội thảo đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng tổ chức

(ảnh minh họa từ Thông tấn xã Việt Nam news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Gần 40 năm đổi mới đất nước gắn liền với quá trình hình thành, phát triển tư duy, nhận thức lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các quan điểm của Đảng đã tạo cơ sở để cả hệ thống chính trị chung tay thực hiện nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ tư tưởng trở thành hiện thực như ngày nay. Việc nghiên cứu quá trình nhận thức của Đảng về các đặc trưng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc để các cơ quan nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình nhà nước này trong thời gian tới.

1. Sự phát triển nhận thức của Đảng về các đặc trưng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ Đại hội lần thứ VI (12/1986) đến Đại hội lần thứ XII (1/2016)

Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức được đề cập đến tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994); tuy nhiên, trước đó, những tư tưởng, yếu tố về pháp quyền đã được ghi nhận tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986), chứa đựng trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” [1, tr.88]; nhấn mạnh “quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”[2. tr.28]; “pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”[3]. Có thể nói, những quan điểm này đã đặt những viên gạch đầu tiên trong nhận thức của Đảng về một mô hình nhà nước đề cao dân chủ và thượng tôn pháp luật – hai giá trị căn cốt nhất của Nhà nước pháp quyền; mở ra quá trình đổi mới tư duy, nghiên cứu về mô hình Nhà nước pháp quyền phù hợp với điều kiện thực tiễn đất nước trong những giai đoạn tiếp theo.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) và lần thứ VIII (7/1996) là hai kỳ Đại hội quan trọng khi đưa ra và hoàn thiện tên gọi mô hình Nhà nước pháp quyền ở nước ta đó là: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Dấu ấn nổi bật về đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng trong giai đoạn 1991 – 1996 đó là chính thức ghi nhận vấn đề “xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam”[4. tr.224] tại Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994). Đại hội lần thứ VIII (7/1996) thể hiện bước phát triển khi bổ sung thêm tính chất “xã hội chủ nghĩa” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam nhằm khẳng định sự kiên định trong giữ vững bản chất, theo đuổi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhà nước ta. Từ đây, mô hình Nhà nước pháp quyền ở nước ta chính thức được định hình với tên gọi “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới đất nước, cùng quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội lần thứ IX (4/2001) đã chỉ ra 5 đặc trưng của mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là: (1) Là nhà nước thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (2) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; (3) Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; (4) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; (5) Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Việc xác định các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng, trước hết là để phân biệt mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta với các Nhà nước pháp quyền trên thế giới; đồng thời, trên cơ sở đặc trưng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện nhằm phòng tránh nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền - một trong bốn nguy cơ cản trở việc thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006) đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở 5 đặc trưng được chỉ ra tại Đại hội lần thứ IX. Đại hội lần thứ X bắt đầu có sự nhận thức vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là nền tảng quan trọng để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011) đưa ra đầy đủ, toàn diện 7 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở kế thừa nội dung cốt lõi 5 đặc trưng từ Đại hội lần thứ IX và phát triển các yếu tố mới như bảo vệ quyền con người, tính tối cao của Hiến pháp, pháp luật, quan hệ quốc tế; bổ sung “kiểm soát” trong nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Sự phát triển trong nhận thức của Đảng còn thể hiện ở việc dành một mục lớn trong Báo cáo Chính trị cho nội dung “XI - Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; thay vì lồng ghép vấn đề Nhà nước pháp quyền vào trong các mục khác như trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX, X của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1/2016) tiếp tục hoàn thiện các đặc trưng cơ bản[5] của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như bổ sung nội dung “thượng tôn pháp luật”, “nhà nước chịu trách nhiệm”.

Tóm lại, qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhận thức của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng sáng tỏ với các đặc trưng cụ thể, góp phần quan trọng kiện toàn mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển.

2. Nhận thức mới của Đảng về các đặc trưng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ Đại hội lần thứ XIII đến nay

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra từ ngày 25/1/2021 đến ngày 03/2/2021 đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII trong đó nhấn mạnh: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố vững mạnh” song vẫn “chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới”. Chính vì vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam “trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước” được xác định là một trong 10 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030; đồng thời, là nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII. Đại hội lần thứ XIII đặt ra yêu cầu: “Nghiên cứu ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”[6.4T1,tr.177]. Đây là yêu cầu mới mà trong Văn kiện các kỳ Đại hội trước đều chưa đề cập tới; “chiến lược” sẽ đề ra các quyết sách, cách thức hành động đầy đủ, toàn diện, sâu sắc nhằm đạt được mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đồng thời, thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức, tư duy, quyết tâm chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này.

Triển khai yêu cầu của Đại hội lần thứ XIII, ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trên cơ sở tổng kết, kế thừa nội dung của Cương lĩnh, Văn kiện của Đảng, Hiến pháp qua các thời kỳ về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bám sát tình hình thực tiễn trong nước và thế giới, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa’’, Nghị quyết 27-NQ/TW đã chỉ ra 8 đặc trưng của mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là: (1) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; (2) Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (3) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; (4) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; (5) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; (6) Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; (7) Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; (8) Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

So với các văn kiện Đại hội nhiệm kỳ trước, tại Nghị quyết số 27-NQ/TW đã tổng kết, thống nhất 8 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và có một số điểm mới bổ sung. Trước hết là thay đổi thứ tự các đặc trưng, đưa đặc trưng “do Đảng Cộng sản Việt Nam” lên đầu tiên nhằm khẳng định vai trò của Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất nhà nước và xã hội. Thứ hai, phải có sự “phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả” giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Thứ ba, bổ sung thêm đặc trưng về hệ thống pháp luật và sự độc lập của cơ quan tư pháp. Trong nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng, hệ thống pháp luật có vai trò hết sức quan trọng; chỉ khi pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán thì mới nhận được sự ủng hộ và tự giác thực hiện của tất cả các chủ thể trong xã hội; qua đó mới bảo đảm tính thượng tôn pháp luật. Tương tự, sự độc lập trong xét xử của cơ quan Tòa án thể hiện nguyên tắc thượng tôn pháp luật; bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.

3. Một số giải pháp nhằm bảo đảm đặc trưng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới

Nhóm giải pháp về phát huy dân chủ, đảm bảo Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tiếp tục tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính Nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước, bảo đảm nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân. Trước hết, cần phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Ðảng với Nhà nước. Ðảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, bằng công tác cán bộ, bố trí, sắp xếp đúng cán bộ, làm tốt việc kiểm tra, giám sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ. Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực đều thuộc về Nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan để thực hiện có hiệu quả quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Duy trì, thực hiện có hiệu quả trên thực tế các hoạt động kiểm tra, giám sát bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Ba là, tiếp tục nâng cao hơn nữa hoạt động của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội; đẩy mạnh hoạt động cải cách hành chính. Chú trọng xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, vì Nhân dân phục vụ . Xây dựng các cơ quan bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, bảo đảm quyền làm chủ của người dân. Bốn là, tập trung xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước. Thực hiện cam kết chính trị, nâng cao nhận thức về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình ở cả hệ thống chính trị. Có cơ chế, chế tài xử lý nghiêm minh đối với cán bộ, công chức tham ô, tham nhũng, xa dân, thiếu tôn trọng dân và nhũng nhiễu dân. Ðể bảo đảm tốt công việc này, cần thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở, khuyến khích, bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng.

Nhóm giải pháp về bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Chú trọng xây dựng, củng cố các thiết chế nhà nước trong bảo vệ, giám sát việc thực hiện quyền con người, quyền công dân. Tập trung hoàn thiện cơ chế phát hiện và ngăn chặn vi phạm quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vực; cơ chế bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về quyền con người, quyền công dân. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương pháp giáo dục nhân quyền cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; cán bộ thực thi pháp luật và toàn thể Nhân dân. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhằm nâng cao năng lực xây dựng và thực thi pháp luật, năng lực bảo vệ và giám sát việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Nhóm giải pháp về cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước. Cần xác định rõ ràng, rành mạch, cụ thể cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Cụ thể:

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tập trung vào các vấn đề như: bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp, sắp xếp các Uỷ ban của Quốc hội đảm bảo tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá cao. Giữ vững nguyên tắc bảo đảm Quốc hội thật sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, thật sự là Quốc hội của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động lập pháp; tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng các dự án luật. Nâng cao hiệu quả giám sát, đổi mới mạnh mẽ phương thức tiến hành, khắc phục tình trạng giám sát dàn trải, thiếu chiều sâu; tập trung giám sát những vấn đề bức xúc trong đời sống kinh tế - xã hội.

Đối với Chính phủ: Xây dựng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, giảm bớt đầu mối trung gian, tiến hành sáp nhập các bộ tương đồng về chức năng nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu cơ cấu tổ chức tinh gọn, vừa đảm bảo cơ chế vận hành thông suốt, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý ngành, lĩnh vực. Đồng thời, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, tránh tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số giúp tăng cường kết nối, chia sẻ dữ liệu, thuận tiện trong phối hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ.

Đối với hệ thống các cơ quan tư pháp: Rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy của các tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam và cơ quan thi hành án hình sự, dân sự gắn với cải cách thủ tục hành chính. Chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng cơ quan với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp của các cán bộ được giao thực hiện các hoạt động tư pháp.

Về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo.

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng kế hoạch sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức được tham gia bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất và bản lĩnh chính trị để việc thực hiện công vụ đạt hiệu quả cao. Bên cạnh bồi dưỡng về chuyên môn cho cán bộ, công chức, viên chức cũng cần phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức trong hoạt động công vụ.

Nhóm giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật. Kịp thời thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luât, chính sách cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn để tổ chức triển khai thực hiện; đồng thời tổng kết thực tiễn, phát hiện bất cập để hoàn thiện. Củng cố các thiết chế và điều kiện bảo đảm cho công tác tổ chức thi hành pháp luật như: thực hiện tốt hoạt động tuyên truyền phổ biến, nâng cao nhận thức pháp luật của người dân trong việc tham gia vào theo dõi, giám sát việc thực hiện quyền lực của cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước; nâng cao hiệu quả thực hiện các hoạt động theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động tổ chức thi hành pháp luật đảm bảo tính kết nối, liên thông và hiệu quả của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Nhóm giải pháp về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên, Nhân dân biết và giám sát việc thực hiện. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện phân cấp, phân quyền, chống tha hoá quyền lực. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực hiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm.

Kết luận

Lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thành tựu nổi bật của Đảng ta trong thời gian qua. Quá trình này thể hiện rõ sự đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ chỗ chỉ là những yếu tố, nội dung đơn giản, rời rạc phát triển thành các đặc trưng mang tính hệ thống, liên kết chặt chẽ và trở thành nền tảng, kim chỉ nam cho hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn đất nước ta hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

[1] Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 53, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

Nguyễn Văn Mạnh, Dương Thị Tươi (2020), Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật thời kỳ đổi mới, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

LỤC VIỆT DŨNG

 

Học viện Chính trị khu vực I
Hội thảo đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng tổ chức (ảnh minh họa từ Thông tấn xã Việt Nam news.vnanet.vn) Đặt vấn đề Gần 40 năm đổi mới đất nước gắn liền với quá trình hình thành, phát triển tư duy, nhận thức lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các quan điểm của Đảng đã tạo cơ sở để cả hệ thống chính trị chung tay thực hiện nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ tư tưởng trở thành hiện thực như ngày nay. Việc nghiên cứu quá trình nhận thức của Đảng về các đặc trưng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc để c&aacute

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn