Trong suốt bề dày truyền thống lịch sử Việt Nam, vai trò của quần chúng nhân dân luôn được đề cao, thể hiện ở các tư tưởng “dĩ nông vi bản”, “dĩ dân vi bản”, “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Sau này, trong toàn bộ di sản tư tưởng cũng như thực tiễn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn thể hiện rõ quan điểm “lấy dân làm gốc”. Đây là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam định ra đường lối chiến lược, lãnh đạo cách mạng giành chính quyền, bảo vệ chế độ, giữ vững độc lập, chủ quyền; là cơ sở lý luận để Đảng xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình lịch sử. 

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc từ thực hiện bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm”
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc từ thực hiện bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm”

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc”

Lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam đã khẳng định “bảo quốc ” (giữ nước) và “hộ dân” (giúp dân) là hai nhiệm vụ quan trọng nhất của quốc gia. Nếu không làm tròn hai nhiệm vụ này thì sự tồn tại của một triều đại cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tư tưởng “dân làm gốc” là phương châm điều hành đất nước của mọi triều đại trong lịch sử Việt Nam. Chủ trương dựa vào dân để bảo vệ đất nước của các triều đại phong kiến đã phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Tống, Mông - Nguyên, Minh, Thanh xâm lược, giành và giữ được độc lập cho dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đồng bào Hùng Sơn, xã Phục Linh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên năm 1954. Ảnh: Tư liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đồng bào Hùng Sơn, xã Phục Linh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên năm 1954. Ảnh: Tư liệu.

Tiếp nối tư tưởng “dân làm gốc” trong lịch sử dân tộc, toàn bộ di sản tư tưởng cũng như thực tiễn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ quan điểm này. Theo Người, biểu hiện của “dân làm gốc” là phải biết tin ở dân, gần gũi với dân, kính trọng dân và biết dựa vào dân. Phải nhận thức rõ dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng: “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(1). Người cho rằng: “...cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”(2) và xác định: Lực lượng chính trong cuộc kháng chiến, kiến quốc là nhân dân. Chính vì vậy, ngay sau khi ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng xác định lực lượng cách mạng là toàn thể quần chúng nhân dân. Trong đó, giai cấp công - nông là nòng cốt của cách mạng, học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công - nông. Điều này khẳng định sức mạnh của Đảng được xây dựng trên nền nhân dân, nhân dân là chỗ dựa của Đảng. Đường lối đúng đắn này là ngọn cờ tập hợp đông đảo quần chúng tham gia và làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Đến khi đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(3) và do vậy “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (4). Bên cạnh việc đề cao vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ thì trách nhiệm, nghĩa vụ làm chủ của mỗi người dân cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh. Người chỉ rõ: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân” (5). Điều này có nghĩa là, dân chủ không chỉ bao hàm mỗi quyền lợi, lợi ích chính đáng của dân, mà đi liền với nó, còn là phương diện nghĩa vụ và trách nhiệm của dân. Người lưu ý, “sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc” và “công việc đổi mới, xây dựng” đều thuộc trách nhiệm, công việc của dân, tức là do dân làm chủ. “Quyền làm chủ” và “trách nhiệm làm chủ” của nhân dân là hai nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Nhân dân có quyền làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh luôn thể hiện, quán triệt cả hai phương diện ấy khi bàn về dân chủ. Người viết: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết... Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ” (6).

Quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh giành độc lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước phát triển và cụ thể hóa tư tưởng đó vào trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, việc giữ dân, giành dân, an dân và đặc biệt là việc lấy “dân làm gốc” có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng và sự bền vững của chế độ.

Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, đường lối phát động cuộc chiến tranh nhân dân thể hiện tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục quán triệt quan điểm lấy “dân làm gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân. Xuyên suốt các nhiệm kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta luôn đề cao bài học này. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, một trong bốn bài học lớn được Đảng ta rút ra là, trong toàn bộ hoạt động của mình “Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động"; "Bài học “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, trước đây rất quan trọng, bây giờ càng quan trọng; đó là bài học vô giá của cách mạng nước ta”. 

Bài học này tiếp tục được quán triệt sâu sắc trong các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đề cao bài học: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh bài học: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. “Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân”. Tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong quá trình xây dựng đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) khẳng định, đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với ý nghĩa như vậy, vai trò và vị trí của nhân dân tiếp tục được coi trọng và thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhân dân.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện cùng Nhân dân và các cháu thiếu nhi phường Đông Kinh, TP. Lạng Sơn, ngày 25-8-2023.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện cùng nhân dân và các cháu thiếu nhi phường Đông Kinh, TP. Lạng Sơn, ngày 25-8-2023.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII nêu rõ: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân làm gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Từ quan điểm nhất quán này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, những quyết sách mạnh mẽ hướng đến việc phát huy sức mạnh của thế trận lòng dân, nâng cao niềm tin son sắt của nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đây chính là động lực to lớn, mang tính quyết định của cách mạng.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đại hội XIII xác định để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển của nhiệm kỳ mới và cả những giai đoạn tiếp theo, đó là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam nhằm hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển phồn thịnh. Đó là việc tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ cơ sở theo tinh thần “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thực tế thì dân không chỉ được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra và giám sát. Cái đích cuối cùng và cũng là thước đo hiệu quả của mọi chủ trương, quyết sách đó còn là những thành quả mà nhân dân được thụ hưởng. Đây là bước tiến mới trong việc phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Những chính sách về phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo được hoàn thiện đồng bộ, bảo đảm để mọi người dân đều được thụ hưởng một cách công bằng.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng tiếp tục được đề cập và quán triệt một cách sâu sắc. Đây cũng được coi là thước đo vì dân để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Bên cạnh việc tiếp tục xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, Đại hội XIII chú trọng các nội dung, giải pháp tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Cán bộ, đảng viên phải có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Để xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, Đại hội XIII đã cụ thể hóa, hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” bằng việc phát huy vai trò giám sát, đánh giá của Nhân dân trong xây dựng Đảng, Nhà nước. Đại hội chỉ rõ: Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. 

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đáp ứng yêu cầu thực tiễn

Để hiện thực hóa bài học “dân là gốc”, “dân là trung tâm” và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới, xin gợi mở, đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, phát huy bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm”, khi ban hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân; tôn trọng và lấy ý kiến đóng góp của nhân dân và đánh giá tác động của nghị quyết đến đời sống của Nhân dân. Với cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Do đó, mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, nhất là những chủ trương, đường lối có liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân không những phải lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân mà còn phải được Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa thành chiến lược, chương trình, chế độ, chính sách, thành văn bản pháp luật. Những văn bản được Nhà nước thể chế hóa đó có thực sự phát huy quyền làm chủ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân…. Đó là những thước đo quan trọng đánh giá sự quan tâm và mức độ chăm lo của Đảng, Nhà nước đối với Nhân dân.

Hai là, tăng cường dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng. Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Chính Nhân dân là chủ nhân của Nhà nước, mọi quyền lực của Nhà nước đều là quyền lực của Nhân dân, thuộc về Nhân dân. Điều 3 Hiến pháp quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Điều 6 Hiến pháp cũng chỉ rõ: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.

Yêu cầu trên đòi hỏi các cơ quan quyền lực của Nhà nước phải do dân bầu cử dân chủ để lập ra. Các đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân phải thực sự là những người tiêu biểu, có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ mọi mặt, xứng đáng đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Các cơ quan nhà nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình chính là vì nhân dân phục vụ, qua đó góp phần củng cố lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Ba là, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của nhân dân. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng trong thực hiện và phát huy bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm”... Quyền làm chủ của nhân dân được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, trong đó có quyền được ứng cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước (quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp); nhân dân (cử tri) có quyền bãi nhiệm đại biểu quốc hội và đại biểu HĐND các cấp khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; quyền được thông tin (được cụ thể trong Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở) và quyền được nói lên ý kiến của mình (dân được bàn). Quyền này đòi hỏi người dân được tham gia thảo luận, bàn bạc và quyết định các công việc liên quan đến đời sống của nhân dân. Người dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm sai trái pháp luật.

Quyền được lao động, sản xuất, kinh doanh (dân được làm): Theo quy định của pháp luật, Đảng và Nhà nước khuyến khích người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm như học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh, phát minh, sáng chế, sáng tác, phê bình văn học nghệ thuật, vv… Quyền được kiểm tra, giám sát (dân được kiểm tra, giám sát): Với quan điểm dân là chủ, mọi quyền lực nhà nước đều ở nơi dân. Dân có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Mức độ, phạm vi lĩnh vực hoạt động, hình thức, phương pháp nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát thể hiện mức độ phát huy dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân. Quyền được hưởng (dân được hưởng): Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì thế, dân có quyền được hưởng thụ thành quả lao động của mình, thành quả của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước theo quy định của pháp luật.

Bốn là, tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội. Do đó, việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân là một trong những việc làm rất quan trọng để củng cố, tăng cường niềm tin giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước, phát huy hiệu quả thiết thực trong thực hiện bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm”, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.

Năm là, xây dựng lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ trong thực hiện bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm” trong tình hình mới. Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng với chính quyền là điều kiện quan trọng quyết định sự tồn vong của một chế độ. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giành chính quyền, kháng chiến, kiến quốc, mặc dù đời sống của đại bộ phận nhân dân rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, kể cả hy sinh xương máu cho cách mạng, cho độc lập dân tộc nhưng Nhân dân ta vẫn một lòng theo Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Niềm tin đó được xây đắp bền chặt, gắn bó mật thiết giữa Dân với Đảng, Đảng hy sinh, phấn đấu cho hạnh phúc của Nhân dân, cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng hiện nay thể hiện trên nhiều phương diện: trước hết là tích cực thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quan tâm, thường xuyên tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp; hưởng ứng các cuộc bầu cử đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp với tỷ lệ đi bầu rất cao; tham gia giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện, nêu gương của cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,vv…Niềm tin của nhân dân đối với Đảng sẽ được tiếp tục củng cố, tăng cường khi cán bộ, đảng viên, công chức trong cả hệ thống chính trị tiên phong, gương mẫu, hết mình cống hiến vì lợi ích của Nhân dân; khi Đảng lãnh đạo có hiệu quả cuộc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, khi những bức xúc, kiến nghị chính đáng của người dân được giải quyết kịp thời.

--------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tập 5, tr.335.
(2) Sđd, tập 2, tr.283.
(3) Sđd, tập 7, tr.434.
(4) (5) Sđd, tập 6, tr.232.
(6) Sđd, tập 10, tr.457.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc” Lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam đã khẳng định “bảo quốc ” (giữ nước) và “hộ dân” (giúp dân) là hai nhiệm vụ quan trọng nhất của quốc gia. Nếu không làm tròn hai nhiệm vụ này thì sự tồn tại của một triều đại cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tư tưởng “dân làm gốc” là phương châm điều hành đất nước của mọi triều đại trong lịch sử Việt Nam. Chủ trương dựa vào dân để bảo vệ đất nước của các triều đại phong kiến đã phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Tống, Mông - Nguyên, Minh, Thanh xâm lược, giành và giữ được độc lập cho dân

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn