Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới 37 năm qua không chỉ là kết quả của việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là kết tinh của quá trình sáng tạo lý luận của Đảng, dân tộc, nhân dân ta. Những kết quả sáng tạo lý luận đó đã góp phần bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, thể hiện trong các Cương lĩnh, nghị quyết, đường lối, chủ trương nói chung, trong đường lối đổi mới nói riêng và đó cũng là minh chứng cho thấy rõ ràng rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quan trọng hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đạt được những thắng lợi vẻ vang.

Những thành tựu lý luận chủ yếu của Đảng trong xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới - Nội dung cốt lõi và bài học kinh nghiệm
Những thành tựu lý luận chủ yếu của Đảng trong xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới - Nội dung cốt lõi và bài học kinh nghiệm

Lý luận đổi mới Việt Nam là hệ mục tiêu, quan điểm, đặc trưng, phương hướng, các mối quan hệ lớn mang tính quy luật… xác lập mô hình phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới, có ý nghĩa chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Lý luận đổi mới Việt Nam là sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể Việt Nam thời kỳ mới; sự sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bằng hình thức và phương pháp đổi mới, phù hợp quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn dân tộc và xu thế thời đại; trên cơ sở chung đúc những bài học thành công và cả thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX và kế thừa có chọn lọc trên tinh thần phê phán các thành tựu, giá trị tư tưởng và khoa học của nhân loại.

Những thành tựu lý luận chủ yếu

Một làđường lối đổi mới xác định mục tiêu chủ nghĩa xã hội theo cả đặc trưng cấu trúc và chất lượng phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, mang bản sắc Việt Nam.

Trong quá trình đổi mới, Đảng đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội gồm 6 đặc trưng, rồi tiếp tục bổ sung, phát triển thành 8 đặc trưng, thể hiện những bước phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội, đồng thời mục tiêu thứ nhất “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cũng chính là mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Từ những bài học và kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới, đúng như nhận định của Đảng nêu ra tại Đại hội lần thứ X, nhận thức của chúng ta “về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”(1).

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Công ty cổ phần giấy An Hòa tại xã Vĩnh Lợi, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (Ảnh: TTXVN)

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: 1- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; 2- Do nhân dân làm chủ; 3- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 5- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 6- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Đánh giá chung 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(2).

Hai là, phát triển lý luận mang tính đột phá về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện ở chỗ kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn 37 năm đổi mới; hướng tới xây dựng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế phổ biến. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế được nhất quán xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, lấy con người làm trung tâm, vì con người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển... Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, trở thành nòng cốt. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Thực tế 37 năm đổi mới cho thấy, mối quan hệ ba bên giữa nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, nhìn nhận là mối quan hệ đối tác, hợp tác, được quản lý, xây dựng, hoàn thiện từng bước nhằm góp phần phát triển nhanh, hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững đất nước. Trong mối quan hệ này, Nhà nước có vị thế, vai trò rất quan trọng của cả một hệ thống tổ chức nhà nước gồm các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương để thực hiện quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong khi đó, thị trường vận hành tuân theo quy luật, chủ yếu có vị thế, vai trò định hướng, quy định và điều tiết hành vi, hoạt động trao đổi, mua bán, giao dịch của các bên tham gia thị trường; trong đó, “nhà nước” dưới hình thức tổ chức là các cơ quan nhà nước và “xã hội” có thể đóng vai người mua, người tiêu dùng và cả người cung cấp những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhất định.

Ba là, xây dựng, hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những đóng góp lý luận quan trọng.

Trong quá trình đổi mới, việc chấp nhận mô hình Nhà nước pháp quyền ở nước ta cũng là một cuộc đấu tranh gay gắt trong đổi mới tư duy chính trị. Đại hội VI của Đảng mới chỉ manh nha hình thành các cụm từ “quản lý đất nước bằng pháp luật”, “từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật”(3). Đến Đại hội VII, quan điểm đổi mới hoạt động của Nhà nước được bổ sung thêm nội dung: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch  ba quyền đó”(4). Khái niệm “Nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994). Tuy nhiên, đến Đại hội IX của Đảng (năm 2001), “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” mới được coi là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược và xuyên suốt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tinh thần này được khẳng định trong Văn kiện Đại hội X, XI, XII, khi Đảng ta coi “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo” là một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(5).

Bốn là, phát hiện và xác định các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Ngoài các phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh năm 2011 còn bổ sung nội dung về việc nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: “Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”(6).

Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta đã bổ sung thêm mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, đó là quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; đồng thời đã điều chỉnh mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa thành quan hệ giữa tuân theo quy luật của thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; đến Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường được bổ sung thành quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Đến Đại hội XIII (năm 2021), Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung thêm mối quan hệ lớn thứ mười là: mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Đến nay, Đảng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là “quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(7).

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh, đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả(8). Mười mối quan hệ lớn là sự khái quát cao nhận thức lý luận của Đảng trên con đường thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp phần làm sáng rõ thêm về các quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam, quy luật cầm quyền khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm là, hình thành lý luận về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được vận hành thông qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; nhân dân làm chủ thông qua chế độ dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

Từ lý luận của V.I. Lê-nin về hệ thống chuyên chính vô sản, Đảng ta đã phát triển thành lý luận hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, từ nền chuyên chính vô sản thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống chuyên chính vô sản, chức năng trấn áp giai cấp thống trị, đấu tranh giai cấp được nhấn mạnh thì trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có bản chất, mục tiêu, động lực là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý cũng nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào sức dân để làm lợi cho dân và đấu tranh với các thế lực thù địch âm mưu phá hoại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cấu trúc của hệ thống chính trị gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhân dân làm chủ thông qua chế độ dân chủ đại diện và chế độ dân chủ trực tiếp. Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là nhân tố và điều kiện cơ bản cho phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng trong đoàn kết, tập hợp, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, trong giám sát và phản biện xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, của người Việt Nam trong nước và định cư ở nước ngoài.

Sáu là, phát triển lý luận về phát triển con người toàn diện, giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công; lấy con người làm trung tâm gắn với xác định phát triển giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; chú trọng bảo vệ môi trường.

Cương lĩnh năm 2011 xác định một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là con người được giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công, được sống tự do, mưu cầu hạnh phúc. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính. Nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu của xã hội, phát huy năng lực và phẩm chất của con người. Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ công dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi của công cuộc đổi mới và từng chính sách phát triển thông qua hệ thống phúc lợi xã hội tiến bộ, bền vững, chất lượng cao và hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt, tiến tới bao phủ toàn dân. Xây dựng quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp hài hòa, đoàn kết, cùng phát triển, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi; thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định pháp luật; tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Nghiêm trị mọi hành động kỳ thị, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.

Bảy là, lý luận về đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ; là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Từ quan điểm về chủ nghĩa quốc tế vô sản, về quan hệ đối ngoại là sự mở rộng quan hệ đối nội ra ngoài biên giới quốc gia, đường lối đối ngoại phục vụ cho đường lối đối nội… của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta đã bổ sung, phát triển thành đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế trong thời kỳ đổi mới. Đa dạng hóa được xác lập không chỉ bằng chính trị, mà trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa; ngay trong lĩnh vực chính trị, không chỉ quan hệ ngoại giao nhà nước mà cả đối ngoại đảng, đối ngoại nghị viện, đối ngoại quốc phòng, đối ngoại an ninh; ngoại giao văn hóa góp phần tăng cường sức mạnh mềm quốc gia; ngoại giao nhân dân được thúc đẩy, tăng cường; tất cả cùng tạo nên đa tầng mặt trận đối ngoại, ngoại giao để góp phần vào giữ vững hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đa phương hóa được khẳng định bằng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới vì hòa bình, dân chủ, hợp tác, phát triển; trong các tổ chức khu vực và quốc tế và tại các diễn đàn; là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Quan hệ quốc tế phát triển với nhiều tầng nấc ưu tiên, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước có quan hệ hữu nghị truyền thống, các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu chuộng hòa bình, tiến bộ,… Đa dạng hóa, đa phương hóa giúp Việt Nam tận dụng được các thời cơ phát triển trong trật tự thế giới biến động khó lường, giữ vững và phát huy cục diện tích cực đã xác lập, giữ vững hòa bình, ổn định, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về quốc tế hóa, về độc lập dân tộc, Đảng ta đã phát triển thành quan điểm chủ động, tích cực hội nhập quốc tế gắn liền với giữ vững độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế trong quan điểm của Đảng ban đầu chỉ giới hạn trên lĩnh vực kinh tế dần mở rộng hội nhập toàn diện trên các lĩnh phi kinh tế trên tinh thần chủ động, tích cực. Đó là chủ động đàm phán lộ trình hội nhập hợp lý, đặt ưu tiên hội nhập từng lĩnh vực, tích cực cải thiện, nâng cao về mặt nội lực để giành được lợi ích, không bị thua thiệt khi hội nhập quốc tế, đặc biệt là sửa đổi hệ thống luật pháp, chính sách, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo các nguồn lực đối ứng bên trong để sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Từ chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tiến lên phấn đấu trở thành thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, kể cả tham gia gánh vác những nghĩa vụ quốc tế như cử quân đội tham gia giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc ở các điểm nóng có xung đột. Cùng với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là tinh thần giữ vững độc lập, tự chủ: Đó là giữ vững đường lối, chính sách, luật pháp độc lập, không bị can thiệp bởi bên ngoài, kể cả quá trình sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp yêu cầu hội nhập quốc tế cũng phải chủ động, xuất phát từ nhu cầu bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc. Đó là bảo đảm độc lập, tự chủ bằng tạo ra khả năng đan cài sâu rộng lợi ích nước ta với các nước khác, nhất là các nước lớn, theo phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa. Đó là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ bằng lựa chọn hợp lý và có giải pháp nâng cao vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước, nhất là ở các lĩnh vực then chốt, thiết yếu, quan trọng về quốc phòng - an ninh, bảo đảm an sinh xã hội; tạo sức cạnh tranh cao của nền kinh tế, của doanh nghiệp, của các sản phẩm chủ lực; đưa hàng hóa nước ta tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tập trung phát triển những doanh nghiệp “đầu đàn” đủ mạnh để dẫn dắt cả vốn, quản trị, công nghệ, chiếm lĩnh thị trường nội địa, thâm nhập sâu vào thị trường thế giới; nắm giữ được công nghệ lõi của một số ngành, lĩnh vực quan trọng; doanh nghiệp của Việt Nam phải chiếm thị phần hàng hóa bán buôn và bán lẻ trong nước, không để nước ngoài thao túng; có hệ thống “phòng vệ” hợp lý để bảo vệ sản xuất trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế.

Tám là, xây dựng, hoàn thiện lý luận về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa với nội hàm rộng lớn bằng sức mạnh tổng hợp cả lực lượng vũ trang và phi vũ trang, gắn với xác định “đối tác” và “đối tượng” trong các bối cảnh, tình hình cụ thể.

Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về quốc gia - dân tộc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã bổ sung, phát triển nội hàm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chiến lược của đất nước phù hợp luật pháp quốc tế; bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ nhân dân; bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Tinh thần, ý chí là kiên trì, kiên quyết đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Quan niệm về “đối tác” và “đối tượng” trong quan hệ quốc tế là bước phát triển mới từ quan niệm “đồng minh” và “kẻ thù” trong lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối tác và đối tượng đan xen nhau, chuyển hóa nhau, có khi trong đối tác có mặt đối tượng phải đấu tranh, có khi trong đối tượng có mặt đối tác cần phải hợp tác. Phương pháp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc là đấu tranh bằng phương pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế; đồng thời, nêu cao cảnh giác, tăng cường tiềm lực mọi mặt, sẵn sàng cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đủ khả năng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa bằng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, lấy quân đội nhân dân và công an nhân dân làm nòng cốt. Sức mạnh tổng hợp được tạo ra bởi nền kinh tế mạnh, thế chiến lược trong cục diện khu vực và thế giới, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, lực lượng vũ trang đủ khả năng răn đe để ngăn chặn chiến tranh, giữ vững hòa bình, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược. Kết hợp cả đấu tranh ngoại giao, tăng cường thực lực bên trong, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với đối ngoại, triệt tiêu các nhân tố bên trong có khả năng gây mầm mống cho bên ngoài lợi dụng chống phá và xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển bền vững đất nước. Ra sức tranh thủ mọi lực lượng tiến bộ trên thế giới, theo phương châm “thêm bạn bớt thù”. Không để chúng ta bị “kẹt” trong quan hệ giữa các nước lớn, nhất là khi có cạnh tranh quyết liệt; không để bị hiểu lầm liên kết với nước này chống nước khác. Thực hiện nền quốc phòng hòa bình tự vệ theo nguyên tắc “bốn không”: Không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này chống nước khác, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ nước ta, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.

Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu

Thứ nhất, phải luôn ý thức sâu sắc rằng, vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong đường lối đổi mới dựa trên nền tảng học thuyết  Mác - Lê-nin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là bài học sâu sắc được rút ra từ chính thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta qua 37 năm đổi mới; cũng là bài học xương máu từ thất bại của các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, khi chệch hướng về đường lối chính trị. Chính sự phát triển phức tạp và khó khăn của thực tiễn cách mạng cho thấy, vai trò và ý nghĩa to lớn của một lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường. Ở đâu và lúc nào, công tác lý luận không được coi trọng đúng mức thì ở đó và khi đó, sẽ xảy ra tình trạng lạc hậu về lý luận, không đủ sức dẫn dắt thực tiễn, trước sau sẽ dẫn đến thất bại, đổ vỡ. Thực tiễn xác nhận, chỉ có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng cường thực hành dân chủ, kịp thời và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng mới là con đường duy nhất đúng để phát triển và bảo vệ đường lối đổi mới, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên.  

Diện mạo Thành phố Hồ Chí Minh sau 37 năm đổi mới (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)

Thứ hai, tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới của Đảng trong bối cảnh mới. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và có hệ thống những di sản tư tưởng, lý luận của các nhà kinh điển mác-xít; cần khẳng định rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời cũng phải xác định, làm rõ những luận điểm mới cần được phát triển, nhận thức lại hay bổ sung thêm vào đường lối đổi mới. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học, những dự báo cho quá trình phát triển đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát hiện những mâu thuẫn, những vấn đề thực tiễn đang đặt ra, phân tích, chỉ rõ những xu hướng, tìm kiếm những bước đi phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam; đồng thời, tiếp thu những thành tựu lý luận mới, tìm tòi những cơ sở lý luận để giải thích một cách khoa học những vấn đề thực tiễn nóng bỏng đang đặt ra trong giai đoạn phát triển tiếp theo. Đặc biệt là, trong quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới phải có tư duy phê phán và sáng tạo, dám đổi mới vượt qua những rào cản của tư duy lối mòn, cũ kỹ, cản trở sự phát triển của lý luận và thực tiễn.

Rõ ràng, đổi mới tư duy và lý luận là nhu cầu cấp thiết, nhưng phải trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Như C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ, cần tránh hai thái cực: hoặc đổi mới nhưng không kiên định lập trường, đổi mới vô nguyên tắc hoặc biến học thuyết của các ông trở thành giáo điều, tín điều nhất thành bất biến, coi đó chỉ là những chân lý có sẵn.  

Thứ ba, tiếp tục phát huy những kinh nghiệm quý báu mà Đảng ta đã đúc kết qua thực tiễn hơn 93 năm lãnh đạo cách mạng. Đó là: 1- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau; 2- Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng; 3- Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công; 4- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại; 5- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề ngày càng nặng nề, phức tạp mà thực tiễn cách mạng, sự phát triển của đất nước đang đặt ra trong bối cảnh mới.

Thứ tư, kiên quyết đấu tranh, vạch trần và bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Trong cuộc đấu tranh này, chúng ta cần cảnh giác, không rơi vào giáo điều, nhưng cũng cần phải tỉnh táo, chống lại những mưu toan nhằm xét lại, bác bỏ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những nội dung cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Ngày nay, trong khi tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới cả bề rộng lẫn chiều sâu, với tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường, những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, đòi hỏi cần phải làm sáng tỏ, thì việc tổng kết thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận càng trở nên cấp bách. Mặt khác, các thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng làm chúng ta đi chệch hướng, mưu toan thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, thì việc đấu tranh bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối đổi mới của Đảng càng trở thành nhiệm vụ hàng đầu và thường xuyên trong công tác chính trị, tư tưởng và lý luận của Đảng ta.

Thứ năm, bảo đảm tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong xây dựng, bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới. Kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng nước ta của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, cần giữ vững được tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc vận dụng, bổ sung, phát triển đường lối, trên cơ sở tiếp thu một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán những thành quả văn minh của nhân loại, những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học vào thực tiễn đất nước thì cách mạng thu được thắng lợi. Đây cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, để “tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(9)./.

PGS, TS Nguyễn Chí Hiếu

--------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, Phần II, tr. 306
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X)Sđd, Phần I, tr. 118
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, Phần I, tr. 422
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 174
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 72 - 73
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 119
(8) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđdt. I, tr. 39
(9) Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 2-12-2023, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xiii/nghi-quyet-so-43-nqtw-ngay-24112023-hoi-nghi-lan-thu-tam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-phat-huy-truyen-4021

Lý luận đổi mới Việt Nam là hệ mục tiêu, quan điểm, đặc trưng, phương hướng, các mối quan hệ lớn mang tính quy luật… xác lập mô hình phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới, có ý nghĩa chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý luận đổi mới Việt Nam là sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể Việt Nam thời kỳ mới; sự sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bằng hình thức và phương pháp đổi mới, phù hợp quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn dân tộc v

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn