Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã phát triển với nhiều thành tựu đáng khích lệ, tuy nhiên, vẫn còn không ít hạn chế, bất cập. Vì vậy, việc tìm kiếm những giải pháp hiệu quả hơn để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập là rất cần thiết. Bài viết làm rõ một số khái niệm liên quan, phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
 

(Ảnh: vov.vn)

Đặt vấn đề

Thể chế kinh tế là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và quan hệ kinh tế. Thể chế kinh tế bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế[1, tr.273].

Thể chế kinh tế thị trường (KTTT) là hệ thống đường lối, chủ trương chiến lược, hệ thống luật pháp, chính sách quy định xác lập cơ chế vận hành, điều chỉnh chức năng, hoạt động, mục tiêu, phương thức hoạt động, các quan hệ lợi ích của các tổ chức, các chủ thể kinh tế nhằm hướng tới xác lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường hiện đại theo hướng thúc đẩy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh[1, tr.274].

Các thành tố cấu thành thể chế KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), bao gồm:Các bộ quy tắc, chế định, luật pháp; các chủ thể tham gia KTTT định hướng XHCN; các cơ chế vận hành KTTT định hướng XHCN; thể chế về các yếu tố thị trường và các loại thị trường...

Hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Trong quá trình hội nhập đó, đòi hỏi thể chế kinh tế ở Việt Nam phải được hoàn thiện theo các tiêu chí hiện đại và tiến bộ nhất, là yếu tố quan trọng giúp hội nhập hiệu quả hơn. Ngược lại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là điều kiện để hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Vì vậy, việc tìm kiếm những giải pháp hiệu quả hơn để hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập là rất cần thiết.

1. Thành tựu về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ngày càng đầy đủ hơn; KTTT định hướng XHCN từng bước được hình thành, có nhiều đặc điểm của nền KTTT hiện đại và hội nhập.

Từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng đã chính thức xác định mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước pháp quyền XHCN quản lý. Tinh thần đó được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001. Chủ trương có tính chiến lược này cũng được kế thừa nhất quán trong Hiến pháp năm 2013 cũng như trong văn kiện của các kỳ đại hội sau này.

Đặc biệt,Trung ương Đảng đã hai lần ban hành nghị quyết chuyên đề về chủ đề này, đó là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/01/ 2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...

Thứ hai, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế; môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn; hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng; từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu.

Trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể, có thể thấy, các đạo luật điều chỉnh những quan hệ kinh tế, dân sự cơ bản nhất của nền KTTT định hướng XHCN đã được ban hành, trong số đó, phải kể tới: 1) Các đạo luật quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản của người dân, doanh nghiệp, các đạo luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng, bảo đảm quyền tự do hợp đồng của người dân, doanh nghiệp như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại...; 2) Các đạo luật quy định điều chỉnh các hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư...; 3) Các đạo luật về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật An toàn thực phẩm, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa...; 4) Các đạo luật về một số loại thị trường quan trọng như thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường bất động sản, thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường tín dụng như Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thương mại, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán...; 5) Các đạo luật về an sinh xã hội và bảo vệ môi trường như Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo vệ môi trường...; 6) Các đạo luật về giải quyết tranh chấp và phá sản đã được ban hành...

Điều đặc biệt là, tư duy xây dựng pháp luật có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, trong đó có những thay đổi mang tính đột phá. Các nỗ lực trong cắt giảm thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trong những năm qua, nhất là kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thu được kết quả rất đáng ghi nhận... Nhờ đó, hàng nghìn rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh đã được dỡ bỏ; nhiều yếu tố, vấn đề về xã hội, quản lý, quản trị liên quan tới chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia được chú trọng chỉ đạo giải quyết. Thứ hạng của Việt Nam trong tất cả các bảng xếp hạng quan trọng của quốc tế đều được cải thiện[2].

Thứ ba, các chủ thể tham gia KTTT định hướng XHCN là các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp được phát triển đa dạng. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được kết quả tích cực.

Thứ tư, các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Hầu hết giá cả của các loại hàng hóa, dịch vụ được xác lập theo cơ chế thị trường.

Nhờ ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại mà việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng nhiều hơn đến kết hợp giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế.

Thứ năm, phương thức lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của Nhà nước ngày càng được hoàn thiện để phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Chuyển đổi số đã giúp xây dựng một nền hành chính công hiệu quả, giảm bớt thủ tục trung gian phục vụ người dân ngày càng tốt hơn.

Đúng như đánh giá tại Đại hội XIII của Đảng: Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động”[3, tr.59-60].

2. Hạn chế về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thực hiện còn chậm, vẫn chưa thực sự đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.

Thứ hai, hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế còn hạn chế. Các doanh nghiệp vẫn còn chậm trong việc chuyển đổi số để thích ứng với những thay đổi của bối cảnh trong nước và quốc tế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định chưa cao. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Quyền sở hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh.

Thứ ba, thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vẫn còn một số bất cập. Bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng gia tăng; xóa đói, giảm nghèo còn chưa bền vững. Thể chế KTTT định hướng XHCN thích ứng với nền kinh tế số ở Việt Nam vẫn còn chưa được hoàn thiện.

Thứ tư, một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, kém hiệu quả. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa được xác lập thật sự theo cơ chế thị trường.

Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng kịp thời so với yêu cầu đổi mới về kinh tế. Cơ chế kiểm soát quyền lực, phân công, phân cấp ở một số nơi vẫn còn bất cập. Quản lý nhà nước ở một số ngành, địa phương chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của KTTT và hội nhập quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế trên một số lĩnh vực đạt hiệu quả chưa cao, còn thiếu chủ động trong phòng ngừa và xử lý tranh chấp thương mại quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: Thể chế KTTT định hướng XHCN còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo”[3, tr.80].

Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó, có nguyên nhân quan trọng là do nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về nền KTTT định hướng XHCN còn chưa đầy đủ; tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề; năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền KTTT; vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của một số cơ quan trong hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, chuyển đổi số còn chậm, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.

3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về sở hữu, về kinh tế số

Thể chế hóa quyền tài sản; hoàn thiện pháp luật về đất đai; hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên; hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, sử dụng tài sản công hiệu quả, hợp lý; hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ; hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”[3, tr.223]Cải cách thể chế về quyền tài sản, tập trung vào các khâu đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản, xử lý tài sản thế chấp ngân hàng, thủ tục phá sản”[3, tr.238], đồng thời, Tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ”[3, tr.230]. Bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp luật về chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế số. Các cơ quan quản lý của Nhà nước cần thường xuyên cập nhật, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy chế, văn bản pháp luật về khoa học, công nghệ số.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp

Tiếp tục hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế nhiều thành phần đồng bộ, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế; kinh tế tư nhân trở thành động lực; kinh tế đầu tư nước ngoài thúc đẩy nâng cao năng lực công nghệ, thúc đẩy phát triển kinh tế số.

Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc của người lao động và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác công - tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ ba, hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường

Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường: Cơ chế giá thị trường; cải cách mạnh mẽ chính sách tài chính về đất đai; bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố đầu vào sản xuất; minh bạch trong độc quyền nhà nước; xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực; hoàn thiện pháp luật phá sản. “Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu”[3, tr.224] (theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới).

Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các loại thị trường. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: Trong hoàn thiện thể chế các loại thị trường, cần ưu tiên phát triển các thị trường yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ; huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường[3, tr.220].

Thứ tư, hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng an ninh và thích ứng với biến đổi khí hậu

Kết hợp phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển xã hội bền vững, công bằng; hoàn thiện khung khổ pháp lý, năng lực thanh, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật về môi trường; đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp; hoàn thiện thể chế kết hợp phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng - an ninh; xây dựng thể chế liên kết kinh tế giữa các ngành, vùng, lĩnh vực và các chủ thể kinh tế...

Thứ năm, hoàn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế

Rà soát, bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật và các thể chế để phù hợp với thông lệ quốc tế; thực hiện nhất quán chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa trong hợp tác kinh tế quốc tế. Ðại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Ða phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế...”[3, tr.135-136].

Thứ sáu, đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực

Phát huy tính tiên phong của doanh nghiệp công nghệ thông tin trong nghiên cứu, phát triển, làm chủ kỹ thuật số. Đặc biệt, chú trọng đẩy mạnh phát triển những lĩnh vực theo xu hướng số hóa như: Năng lượng tự động, hệ thống giao thông vận tải; đào tạo từ xa, quản lý giảng dạy và học tập trực tuyến; quản lý hồ sơ bệnh án, điều trị bệnh trực tuyến; hệ thống quản lý nông - lâm - ngư nghiệp từ xa, thương mại điện tử được chuyển đổi số... Nghiên cứu, cải tiến, phát triển kỹ thuật số các thiết bị, máy móc, đáp ứng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của cộng đồng xã hội, thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp triển khai việc chế tạo, thiết kế, cải tiến dịch vụ, hàng hóa thay cho việc lắp ráp, gia công.

Thứ bảy, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của Nhà nước; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế số phải chú trọng vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, ứng dụng khoa học, công nghệ để phát triển kinh tế, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, nhất là trong xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. “Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế”[3, tr.132].

Kết luận

Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN phải theo hướng hiện đại và quốc tế, làm cho nền kinh tế Việt Nam có khả năng cạnh tranh toàn cầu, hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và quốc tế.

NGUYỄN THỊ HỒNG LÂM - TRẦN THỊ NGỌC MINH

 

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (dành cho bậc đại học hệ chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Nguyễn Văn Cương (2021)Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và định hướng xây dựng, hoàn thiện theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, https://moj.gov.vn

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Trần Thị Hương (2021)Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, https://www.quanlynhanuoc.vn

[5] Ngô Tuấn Nghĩa (2021), Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2021.

[6] Nguyễn Quang Thuấn (2022), Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, https://tuyengiao.vn

 

  (Ảnh: vov.vn) Đặt vấn đề Thể chế kinh tế là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và quan hệ kinh tế. Thể chế kinh tế bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế[1, tr.273]. Thể chế kinh tế thị trường (KTTT) là hệ thống đường lối, chủ trương chiến lược, hệ thống luật pháp, chính sách quy định xác lập cơ chế vận hành, điều chỉnh chức năng, hoạt động, mục tiêu, phương thức hoạt động, các quan hệ lợi ích của các tổ chức, các chủ thể kinh tế nhằm hướng tới x&aacu

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn