Trải qua gần 40 năm đổi mới (từ 1986 đến nay), đất nước bước ra khỏi khủng hoảng, hoàn thành những nhiệm vụ của chặng đầu thời kỳ quá độ, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Trong đó, xây dựng Đảng về chính trị là vấn đề then chốt, được cụ thể hóa trong cương lĩnh xây dựng đất nước; về cách thức, phương pháp lãnh đạo; về cách tổ chức nhằm thực hiện thắng lợi cương lĩnh trong thực tiễn, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt đời sống xã hội.

Công tác xây dựng Đảng về Chính trị qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Công tác xây dựng Đảng về Chính trị qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Đồng chí Tô Lâm – Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đối với công tác xây dựng Đảng về chính trị

1.1. Xây dựng Đảng về chính trị được hiểu là xây dựng Đảng về các mặt cương lĩnh, đường lối được cụ thể của Đảng qua từng giai đoạn cách mạng; về cách thức hay phương pháp lãnh đạo; về cách tổ chức nhằm thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối đó trong thực tiễn, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt đời sống xã hội.

Đối với đảng chuyên chính vô sản, cương lĩnh chính trị đúng đắn là cơ sở đảm bảo cho sự thành công của cách mạng và của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi cách mạng thành công. Đường lối chính trị của Đảng phải được chuyển hóa thành các chính sách và pháp luật của Nhà nước; được tổ chức thực hiện thông qua vai trò tổ chức, quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

1.2. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay, trên cơ sở nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có nhấn mạnh đổi mới nhận thức, đổi mới chính trị. Ngay từ Đại hội VI, Đảng đã xác định rõ: “Đảng phải chăm lo xây dựng mình vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, để từ đó tác động quyết định đến sự phát triển của cách mạng nước ta”(1).

Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X, XI của Đảng đều nhấn mạnh quan điểm: Xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhiệm vụ then chốt, nhất là trong tình hình đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.

Đại hội XII của Đảng xác định rõ: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”(2). Đại hội XIII khẳng định: “...Phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”(3).

- Qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng Đảng về chính trị luôn được Trung ương và các cấp uỷ, tổ chức đảng đặc biệt đề cao, nhấn mạnh tầm quan trọng hàng đầu, khẳng định trên các điểm: i) Xây dựng Đảng về chính trị có ý nghĩa nền tảng, tiền đề cho các mặt công tác xây dựng Đảng, quyết định mục tiêu, phương hướng chính trị, sự thành bại của cách mạng; ii) Xây dựng Đảng về chính trị thể hiện bản chất của Đảng, phân biệt đảng cách mạng chân chính với đảng chính trị cơ hội; iii) Xây dựng Đảng về chính trị là cơ sở để đoàn kết thống nhất trong Đảng và toàn xã hội.

- Các kỳ đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về chính trị. Khẳng định thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh của Đảng, giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị”(4). Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị”(5).

1.3. Phát triển nhận thức lý luận về nội dung, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về chính trị

- Qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng Đảng về chính trị được Đảng ta nhận thức và chỉ đạo sâu sắc về nội dung, nhiệm vụ, giải pháp, thể hiện trên 2 mặt căn cốt: (1) Xây dựng đường lối chính trị đúng (2) Lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối chính trị.

- Tại Đại hội VI, Đảng ta đề ra chủ trương: “Xúc tiến xây dựng một cương lĩnh hoàn chỉnh cho toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Trên cơ sở cương lĩnh đó... đặt nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội”(6). Nhiệm kỳ Đại hội VII, Đảng yêu cầu: Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị… Tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; quán triệt, phát triển, cụ thể hóa Cương lĩnh chính trị, Chiến lược kinh tế-xã hội và các văn kiện khác của Đại hội một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học, đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu(7).

- Các nhiệm kỳ Đại hội tiếp theo VIII, IX, X, XI của Đảng đều nhấn mạnh tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Đại hội XI thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); thông qua Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.

- Đại hội XII, XIII của Đảng, đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, nhất là chú trọng, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(8).

2. Thành tựu, hạn chế trong xây dựng Đảng về chính trị, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm

2.1. Thành tựu xây dựng Đảng về chính trị

2.1.1. Thành tựu trong việc xây dựng đường lối chính trị:

Một là, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Mục tiêu, đặc trưng, phương hướng cơ bản và những quan hệ lớn mang tính quy luật được cụ thể hoá, xác định rõ những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, tạo ra động lực của đổi mới và phát triển toàn diện đất nước trong thời kỳ mới.

Hai là, phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện. Đến Đại hội XIII Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo.

Ba là, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đảng ta khẳng định quan điểm giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội XIII, Đảng nhấn mạnh tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo động lực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội, bắt kịp và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.

Bốn là, phát triển con người và xây dựng nền văn hóa. Đảng ta khẳng định xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong nhiều nghị quyết, cương lĩnh. Đến Đại hội XIII, Đảng nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhấn mạnh xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Năm là, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Sau gần 40 năm đổi mới, đường lối quốc phòng, an ninh quán triệt sâu sắc phương châm: bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi "nước chưa nguy" trên cơ sở xây dựng thế trận lòng dân, thế trận nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đường lối đối ngoại nhấn mạnh các yếu tố: độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Sáu là, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển mới trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh (năm 2011) khẳng định: (i) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (ii) Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Bảy là, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực cầm quyền, lãnh đạo của Đảng. Đây là nhiệm vụ Đảng ta vô cùng coi trọng, xác định là nhiệm vụ then chốt, trọng yếu, thường xuyên, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh thực hiện trong các nhiệm kỳ Đại hội. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) đã ban hành nghị quyết về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay. Đại hội XIII chỉ rõ tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân, đổi mới phương thức lãnh đạo, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

2.1.2. Thành tựu trong việc lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối chính trị:

Một là, Việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng mà khâu đầu tiên là nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết bảo đảm tính kịp thời, hiệu quả từ trung ương đến cơ sở. Các cấp ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa nghị quyết thành các chính sách, pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn.

Hai là, Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế-xã hội nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược có bước chuyển biến tích cực, đạt một số kết quả đáng khích lệ. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo có bước đổi mới, đóng góp tích cực vào xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội tiếp tục được phát triển. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao…

Ba là, Bản lĩnh, uy tín chính trị của Đảng nâng cao, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và có những quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân được giữ vững; cán bộ, đảng viên tin tưởng, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

2.1.3. Đánh giá khái quát những thành tựu:

Thực tiễn gần 40 năm đổi mới, xây dựng Đảng về chính trị được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các nhiệm kỳ và các cấp ủy, tổ chức đảng đặc biệt chú trọng, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt. Nhận thức lý luận về các vấn đề cốt lõi như nội dung, vai trò xây dựng Đảng về chính trị; về xây dựng đường lối chính trị; về tổ chức thực hiện đường lối chính trị; về năng cao bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, sức chiến đấu, uy tín chính trị của Đảng được nâng lên rõ rệt. Việc ban hành chủ trương, nghị quyết của Đảng bám sát thực tiễn, phát huy dân chủ. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng có nhiều đổi mới, chất lượng học tập, quán triệt được nâng lên. Bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngày càng được nâng lên, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất nhanh, phức tạp. Có được những thành tựu trên là do nguyên nhân:

Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đúng đắn của Trung ương và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả của các cấp ủy, tổ chức đảng; giải quyết kịp thời, có kết quả nhiều vấn đề mới, khó, phức tạp nảy sinh trong thực tiễn.

Hai là, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng đã tăng cường sự đoàn kết, thống nhất và có nhiều đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng.

Ba là, đa số cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu đã nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức trong tình hình mới.

Bốn là, phát huy hiệu quả vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Năm là, các cơ quan tham mưu của Đảng, Nhà nước đã chủ động, tích cực tham mưu, hướng dẫn, thường xuyên kiểm tra và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn.

3.2. Hạn chế xây dựng Đảng về chính trị

3.1.1. Hạn chế trong việc xây dựng đường lối chính trị:

Một là, Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về chính trị, dẫn đến một số công việc triển khai thiếu kiên quyết, còn lúng túng.

Hai là, Nhận thức về xây dựng đường lối chính trị còn một số hạn chế, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ như: Về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải quyết các mối quan hệ, cũng như mối liên hệ hữu cơ của việc giải quyết các mối quan hệ đó với những đặc trưng, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ba là, Trong tổ chức thực hiện đường lối của Đảng còn tình trạng: Một số nghị quyết ban hành đã lâu, nội dung có điểm chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được sửa đổi, thay thế hoặc chấm dứt hiệu lực, gây khó khăn trong đôn đốc, theo dõi, nhất là trong thể chế hóa phù hợp trước yêu cầu mới.

Bốn là, Việc thể chế hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Nhiều địa phương, vẫn còn tình trạng nghị quyết của cấp ủy cấp dưới “mô phỏng” nghị quyết cấp ủy cấp trên.

Năm là, Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục. Tư tưởng trông chờ, thụ động, ỷ lại vào cấp trên, tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, kỷ cương phép nước không nghiêm còn khá phổ biến; chưa tạo được nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp có tính đột phá, đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, huy động mọi nguồn lực cho phát triển.

Sáu là, Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi.

3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:

Một là, Một số cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về chính trị trong tình hình mới. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chưa chủ động, sâu sát, thiếu quyết liệt; chưa coi trọng việc tự kiểm tra, xử lý vi phạm.

Hai là, Sự phối hợp giữa một số cấp ủy với đảng đoàn, ban cán sự đảng có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Việc phân định trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân trong tập thể.

Ba là, Khối lượng nhiệm vụ, công việc chuyên môn của bộ, ngành, địa phương và cơ sở rất lớn, yêu cầu cao cả về chất lượng và tiến độ, nhiều nhiệm vụ đột xuất phát sinh trong khi công tác đảng chủ yếu là kiêm nhiệm.

Bốn là, Việc xây dựng, phát huy vai trò của các cơ quan tham mưu về công tác xây dựng Đảng có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức; một bộ phận cán bộ tham mưu chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

3.3. Bài học kinh nghiệm

Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng; kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để đổi mới sáng tạo.

Thứ hai, việc xây dựng đường lối, chiến lược phải tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan trong quá trình đổi mới.

Thứ ba, trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, cách làm bài bản, dân chủ, chắc chắn, có bước đi phù hợp; kiên trì, cầu thị, lắng nghe; không tự mãn với thành tích đạt được.

Thứ tư, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ.

Thứ năm, “lấy dân là gốc”, đổi mới dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, để nhân dân thật sự là chủ thể của tiến trình đổi mới và thụ hưởng thành quả của đổi mới.

4.1. Những dự báo vấn đề quốc tế và trong nước về chính trị

4.1. Những dự báo vấn đề quốc tế về chính trị

Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, cho thấy dự báo của Đảng ta hoàn toàn đúng, trong đó đáng chú ý là các vấn đề: (i) Cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, biểu hiện bằng cuộc xung đột Nga-Ukraine; cuộc xung đột Israel với Hamas ở Trung Đông; (ii) Công nghệ số tạo điều kiện thuận lợi để các phương tiện truyền thông mới phát triển mạnh mẽ, được các quốc gia sử dụng trên mặt trận thông tin, tư tưởng, ý thức hệ; (iii) Các vấn đề an ninh phi truyền thống như khủng bố, tội phạm công nghệ cao, an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, ô nhiễm và suy thoái môi trường, dịch bệnh... trở thành mối đe dọa ngày càng hiện hữu đối với tất cả các quốc gia.

4.2. Những dự báo vấn đề trong nước về chính trị

Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Dự báo đến năm 2045, đất nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực; cơ đồ, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam lớn mạnh hơn nhiều. Tuy nhiên, bên cạnh đó, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn… Bối cảnh, tình hình đặt ra nhiều vấn đề mới trong công tác xây dựng Đảng về chính trị:

Một là, Khung lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội...

Hai là, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Trên thế giới hiện nay xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng, tiếp thu những giá trị tiến bộ.

Ba là, Các thế lực cơ hội, thù địch chống phá quyết liệt với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, “diễn biến hòa bình. Sự đấu tranh, phản bác của ta cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các binh chủng làm công tác chính trị, tư tưởng, đạo đức, đi trước một bước, dự báo xu hướng, tính quy luật vận động, bản chất tất yếu nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho Trung ương hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp với bối cảnh mới.

5. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác xây dựng Đảng về chính trị

5.1. Quan điểm

Xây dựng Đảng về chính trị là nhiệm vụ then chốt, hàng đầu, là nền tảng, cơ sở cho các mặt công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, có ý nghĩa quyết định thành bại của cách mạng dân tộc. Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và hợp tác quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Phát huy sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, hệ thống chính trị và xã hội, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tạo sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta trở thành nước phát triển hàng đầu khu vực châu Á, giữ vị thế và uy tín xứng đáng trên trường quốc tế vào năm 2045.

5.2. Mục tiêu, yêu cầu

Một là, Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, nhất là thể chế hoá, cụ thể hoá thành luật và các văn bản dưới luật.

Ba là, Tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới.

5.3. Nhiệm vụ, giải pháp

Một là, Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối chính trị và nhiệm vụ chính trị.

Hai là, Tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, về bảo vệ Tổ quốc… để xác định bước đi, định hướng lớn của Đảng, của đất nước, hướng đến mục tiêu quan trọng trong những thập kỷ tiếp theo.

Ba là, Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dự báo, hoạch định đường lối đường lối, chủ trương  của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm đồng bộ, thống nhất, toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, khả thi, công khai, minh bạch, lấy hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước làm mục tiêu.

Bốn là,Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy định; thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".

Năm là, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong điều kiện mới. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, vận hành thông suốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.

Sáu là, Nâng cao năng lực thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, kiên quyết khắc phục những yếu kém, trì trệ, tình trạng né tránh trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nghị quyết; kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân.

Bảy là, Đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ và sâu sắc hơn nữa giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế và đổi mới xã hội theo mối quan hệ: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước” - Thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm - Thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội.

Tám là, Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát huy vai trò của cơ quan báo chí, truyền thông, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, đi đôi với việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ công nghệ thông tin, công nghệ số.

TS Đoàn Văn Báu

Ban Tuyên giáo Trung ương

Chú thích:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.458

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.47

3.  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.57.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.199

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.180

6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.374-375

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51,tr.210-211

8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.180

Đồng chí Tô Lâm – Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung Đảng Cộng sản Việt Nam 1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đối với công tác xây dựng Đảng về chính trị 1.1. Xây dựng Đảng về chính trị được hiểu là xây dựng Đảng về các mặt cương lĩnh, đường lối được cụ thể của Đảng qua từng giai đoạn cách mạng; về cách thức hay phương pháp lãnh đạo; về cách tổ chức nhằm thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối đó trong thực tiễn, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt đời sống xã hội. Đối với đảng chuyên chính vô sản, cương lĩnh chính trị đúng đắn là cơ sở đảm bảo cho sự thành công của cách mạng và của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi cách mạng thành công. Đường lối

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn