Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam định hướng cho công cuộc xây dựng, cải cách nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân với các chủ trương cơ bản được khẳng định tại Đại hội XIII.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh định hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo, liêm chính phục vụ nhân dân
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh định hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo, liêm chính phục vụ nhân dân

 I. Chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân.

1. Bản chất giai cấp và tính xã hội của nhà nước

Các nhà kinh điển mácxít đã chỉ rõ bản chất của nhà nước là tính giai cấp - chức năng giai cấp và tính xã hội - chức năng xã hội.

Nhà nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong một trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về kinh tế mới có thể lập và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước, giai cấp này thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và  có thêm phương tiện  để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Ph. Ăng ghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ”1.

Tuy là bộ máy bạo lực chuyên nghiệp của giai cấp thống trị thực hiện chức năng chuyên chính, song nhà nước còn phải thực hiện chức năng xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội và điều hòa lợi ích trong xã hội theo một trật tự mà giai cấp thống trị mong muốn. Các nhà kinh điển mácxít chỉ rõ: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”2. Bởi thế, không có một nhà nước nào có thể tồn tại và phát triển được nếu chỉ duy trì bản chất giai cấp, mà không thực hiện chức năng xã hội. Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, giai cấp thống trị mặc dù có địa vị kinh tế - xã hội quan trọng và quyết định đối với các giai cấp khác, nhưng cũng chỉ là một bộ phận của xã hội mà không phải là toàn xã hội. Vì thế ngoài việc bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị về kinh tế - xã hội, giai cấp thống trị phải điều hòa lợi ích và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các giai tầng khác và ngay cả với giai cấp đối lập với nó. 

Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà nước là một công cụ, đồng thời, là một bộ máy thể hiện trình độ dân chủ của nhân dân. Dân chủ trong chế độ xã hội chủ nghĩa chính là nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước. Không phải chỉ cần có cơ quan đại biểu theo kiểu chế độ dân chủ, mà là toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới lên trên đều phải do bản thân nhân dân tổ chức, nhân dân từng bước tham gia và đóng vai trò tích cực trong  quản lý xã hội.

2. Nhà nước quản lý xã hội và quản lý chính nhà nước bằng pháp luật

Trong xã hội dân chủ, pháp luật không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý xã hội mà còn là công cụ để quản lý chính bản thân nó. C.Mác khẳng định: “Không một người nào, ngay cả nhà lập pháp ưu tú nhất, cũng không được đặt cá nhân mình cao hơn luật pháp do mình bảo vệ3.

Trong bất cứ nhà nước nào, sự tùy tiện của cơ quan nhà nước và người được nhà nước ủy quyền trong thực thi công vụ đều có thể xảy ra. Vì vậy, để hạn chế sự tùy tiện đó, pháp luật phải là đại lượng chung để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mọi chủ thể trong xã hội, đặc biệt quyền tự do của con người. C.Mác đã khẳng định: “Tự do được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong nhà nước dưới hình thức luật pháp. Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp chống lại tự do … Ngược lại, luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến … không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của nhân dân” 4.

Để phục vụ tốt  yêu cầu quản lý xã hội và chế ngự quyền lực nhà nước, pháp luật phải là đại lượng chung, tiến bộ, vì con người, C.Mác chỉ rõ: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người là luật pháp, trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được quy định bởi pháp luật. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”5.

3. Phải kiểm soát quyền lực Nhà nước

Qua thực tiễn lãnh đạo nhà nước Xô viết, V.I. Lênin thấy rõ nguy cơ tha hóa quyền lực nhà nước ngay cả trong nhà nước XHCN. Ông đã chỉ ra sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước và những phương thức, điều kiện cụ thể đảm bảo kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền nhưng những người được ủy quyền vẫn có thể lạm quyền, lộng quyền, không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao, bộ máy nhà nước trở thành thiết chế đứng trên nhân dân. Để hạn chế sự tha hóa quyền lực của công chức nhà nước, để quyền lực nhà nước thực hiện có hiệu quả, V.I.Lênin vạch rõ phải thiết lập  cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.

Về kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài nhà nước, V.I.Lênin nhấn mạnh  vai trò nhân dân  kiểm soát quyền lực nhà nước. “Cuộc đấu tranh chống sự lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của các tổ chức Xô viết, được đảm bảo bởi tính vững chắc của những mối liên hệ gắn liền các Xô viết với “nhân dân” nghĩa là với những người lao động và những người bị bóc lột”6. Người dân đã ủy quyền cho cơ quan nhà nước thì phải có quyền kiểm soát bộ máy nhà nước  để không bị mất quyền, lạm quyền. Các cơ quan nhà nước phải luôn giữ mối liên hệ với nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân để không trở thành quan liêu, thành bộ máy đứng trên nhân dân. Trước hết, Nhân dân phải có quyền lựa chọn người đại diện thực sự xứng đáng để họ tin cậy ủy quyền của mình: “Quần chúng phải có quyền được đề bạt trong nội bộ của họ bất kỳ một công nhân nào lên phụ trách chức vụ lãnh đạo”7. Quyền bầu cử chọn những người đại diện phải được gắn với quyền bãi miễn những đại biểu không còn là đại diện thực sự cho lợi ích và nguyện vọng của dân. V.I.Lênin chỉ rõ: “Việc Lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt”8. Để nhân dân có quyền kiểm soát đối với những đại diện của họ, cần: “Thực hành một chế độ dân chủ đầy đủ hơn, do tính chất ít hình thức hơn và dễ dàng hơn của việc bầu cử và bãi miễn các đại biểu”9.

V.I.Lênin đã vạch ra cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong nội bộ nhà nước, giữa các nhánh quyền lực nhà nước với nhau. giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Thí dụ: Các cơ quan tư pháp được quyền kiểm soát hoạt động ban hành các đạo luật, nghị quyết, quyết định hành chính của các cơ quan dân cử (Quốc hội, hội đồng nhân dân) và cơ quan hành pháp: “Người ta sẽ sai lầm về nguyên tắc nếu nói rằng ủy viên công tố không được quyền kháng nghị đối với những quyết định của Ban Chấp hành Xô viết tỉnh và của các cơ quan chính quyền khác của địa phương”10. “Ủy viên công tố chịu trách nhiệm làm sao cho bất cứ quyết định nào của bất cứ cơ quan hành chính địa phương nào cũng không được đi ngược lại pháp luật, và chỉ có trên quan điểm đó, ủy viên công tố mới có trách nhiệm kháng nghị đối với mọi quyết định ngược với pháp luật nhưng làm như thế, ủy viên công tố không có quyền đình chỉ việc thi hành quyết định, mà chỉ có trách nhiệm dùng những biện pháp cần thiết để làm cho sự nhận thức về pháp chế được hoàn toàn nhất trí trong toàn nước cộng hòa”11.

V.I.Lênin đã chỉ ra điều kiện đảm bảo việc kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu lực. Đó là đảm bảo tính độc lập, đủ quyền lực của các chủ thể kiểm soát đối với các đối tượng phải kiểm soát. Trước hết là phải có sự phân công quyền lực, giao nhiệm vụ một cách độc lập, rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước. “Viện kiểm sát trong khi làm công việc kiểm sát của mình, không có bất cứ một quyền hành chính nào, nó không có quyền biểu quyết trong bất cứ một vấn đề nào thuộc phạm vi hành chính. Ủy viên công tố có quyền và có bổn phận chỉ làm một công việc mà thôi”12. Như vậy mới đảm bảo tính độc lập của chủ thể kiểm soát với đối tượng kiểm soát. Kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc bắt buộc trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.

4. Kiên quyết chống quan liêu và nạn hối lộ

         V.I.Lênin, vạch rõ gắn với quyền lực và quyền lực bị tha hóa nên quan liêu, tham nhũng, tham ô, hối lộ là bạn đồng hành, là cơ sở, tiền đề cho nhau tồn tại, phát triển trong bộ máy nhà nước. Người đã cảnh báo: Một hiện tượng điển hình của nước Nga là nạn hối lộ. Nơi nào cũng có hối lộ. Trong điều kiện nạn hối lộ, tham nhũng thịnh hành thì: ”Không thể làm được một thứ chính trị nào hết13.

          Trong thư gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga về việc xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, V.I. Lênin khẳng định: “Kết án bọn ăn hối lộ nhẹ đến mức lố bịch như thế, mà lẽ ra phải xử bắn chúng, đó là một hành động đáng sỉ nhục với một người cộng sản và một người cách mạng”14. Người phân tích rõ bản chất, tác hại nguy hiểm của bệnh quan liêu, tham nhũng, ăn hối lộ trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Và, khẳng định:  Cần phải có thái độ dứt khoát, kiên quyết trong cuộc chiến này. Bất cứ biểu hiện nào của thái độ quan liêu dù nhỏ đến đâu cũng phải bị trừng phạt. Cần phải xây dựng cơ chế phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ, tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước. Phải kiên quyết thanh trừ ra khỏi Đảng, Nhà nước những kẻ quan liêu, tham nhũng.

          5. Nguyên lý “thà ít mà tốt”

         Trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước Nga Xô viết, V.I.Lênin đã chỉ rõ một tổ chức mạnh không phải vì số lượng mà chủ yếu ở chất lượng. Phải đánh giá khách quan, khoa học thực trạng bộ máy nhà nước để có cơ sở, căn cứ cải cách, sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước. Vấn đề đầu tiên là phải xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, tinh giản, tổ chức khoa học, hoạt động hiệu quả và tiết kiệm theo nguyên lý “Thà ít mà tốt”15, nghĩa là coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng; cán bộ, công chức phải có năng lực, phẩm chất, bản lĩnh chính trị vững vàng, đạt “chất lượng kiểu mẫu thật sự”16. Cho nên cần đổi mới công tác lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quá trình cải cách, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.

     II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân.

Ảnh minh họa

1- Chuyển từ chính phủ cai trị, hành là chính sang chính phủ là công bộc phục vụ nhân dân. Định hướng xây dựng nền hành chính nhà nước kiểu mới.

          Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm. Đã đánh đổ nền thống trị của hai đế quốc  Pháp và Nhật. Trước Cách mạng, nói tới hai chữ chính phủ người ta nghĩ ngay tới một bọn đầu đảng cướp nguy hiểm, xảo quyệt. Nay các chính phủ Pháp, Nhật cai trị, đè đầu cưỡi cổ dân ta đã bị đánh đổ. Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một chính phủ là công bộc phục vụ nhân dân và nền hành chính nhà nước kiểu mới, trong đó cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ. Người khẳng định:

          "Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh"17. 

          Người chủ trương xây dựng nhà nước Việt Nam là Nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân.  Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân nắm quyền lực Nhà nước, tổ chức quyền lực Nhà nước, kiểm soát quyền lực Nhà nước. “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân18. Nhà nước kiểu mới sinh ra để phục vụ nhân dân, chứ không phải nhân dân phục vụ nhà nước. Nhà nước kiểu mới không phải là các ông chủ cai trị dân chúng, hành dân chúng. Xây dựng chính phủ dân chủ, kiến tạo, phục vụ, tức là chính phủ phải quản lý, giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội, phải hướng tới sáng tạo, phát triển nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân và toàn xã hội. Chính phủ phải thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển kinh tế- xã hội bằng cung cấp các dịch vụ phát triển theo yêu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Tại phiên họp bế mạc Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ tư Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân"19.

     Triết lý chính phủ là công bộc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhân dân là chủ xã hội chính là tư tưởng định hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân ở nước ta hiện nay.

          2- Chính phủ định hướng và tập trung nguồn lực cho phát triển, tạo môi trường cho doanh nghiệp và người dân khởi nghiệp và xã hội phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, tháng 2-1951. Ảnh tư liệu

          Nhà nước kiến tạo phát triển, tức là phải tạo ra được cơ chế, chính sách khuyến khích các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ nhiệm vụ của chính quyền các cấp trong bộ máy nhà nước ta. " là phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay… Tất cả phục vụ sản xuất! Tất cả chúng ta, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào, đều phải góp sức làm cho sản xuất phát triển…Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình"20.

          Đáng ngạc nhiên là từ ngày 1-1-1953, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất triết lý chính phủ doanh nghiệp: "Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hoãn, hay bỏ, món gì đáng tiêu, người nào đáng dùng: tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận"21  Tư tưởng này có vai trò định hướng trong hoạch định chính sách kinh tế và điều hành hoạt động của chính quyền các cấp trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chính phủ cần tạo môi trường cho doanh nghiệp và người dân khởi nghiệp để công tư đều lợi, kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Trong sách "Thường thức chính trị" xuất bản năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ:

          "Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế, thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân"22.

          Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên, sớm thấy rõ nhất vai trò của các doanh nhân và kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với tư cách là Chủ tịch nước, ngày 13-10-1945, Hồ Chí Minh gửi thư cho các giới công thương Việt Nam. Người khẳng định chính phủ tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh và người dân làm ăn thuận lợi trong công cuộc ích nước lợi dân:

          "Giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này.  Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng"23. 

          Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, ngày nay cần phải xây dựng một nền hành chính dân chủ, thân thiện với xã hội, với người dân, thị trường và doanh nghiệp, lấy sự ấm no, hạnh phúc của người dân, sự thành công của các doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước làm mục đích hành động của mình.

          3- Chính phủ liêm chính, hành động có hiệu lực, hiệu quả

          Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng, tổ chức hoạt động của chính phủ có hiệu lực, hiệu quả và thể hiện đúng bản chất tốt đẹp của chính phủ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Được Quốc hội giao trách nhiệm thành lập chính phủ mới, tại phiên họp ngày 31-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố:

          " Tuy trong quyết nghị không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết.

          Theo lời quyết nghị của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà"24.

          Để xây dựng một nền hành chính liêm chính, hành động có hiệu lực, hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định công tác tuyển chọn phải đúng đắn, để có đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức, đủ tài, đủ uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. “Các Ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương, phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui vào lọt các Ủy ban đó"25. 

          Do cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Cho nên, Người chỉ ra phương hướng tăng cường công tác giáo dục đạo đức công vụ đi đôi với thực thi pháp luật nghiêm minh, đề cao vai trò nhân dân trong chống tham ô, lãng phí, quan liêu, để xây dựng thành công một nền hành chính liêm khiết, hành động có hiệu lực, hiệu quả. Người vạch rõ:

           "Cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân. “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM.

          Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì"26. 

          4- Nền hành chính với người dân là chủ, có quyền lực, tham gia hoạch định chính sách, pháp luật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

     Một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân, thì trong mọi hoạt động nhất định phải theo phương châm của Hồ Chí Minh là: Dựa vào Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân. Bởi vì  Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phải thể chế hóa, có hành lang pháp lý bảo đảm cho người dân thực sự có quyền lực tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Trong chỉ đạo xây dựng Hiến pháp năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước"27.

          Chính phủ và cán bộ chính quyền các cấp phải khuyến khích người dân sáng tạo, tự do sản xuất, tự do kinh doanh, tự do sở hữu tài sản và tự do hoạt động làm ăn vì lợi ích cá nhân và lợi ích của  quốc gia dân tộc. Muốn vậy, đội ngũ cán bộ nhà nước từ trung ương đến địa phương phải chống bệnh quan liêu, phải biết học hỏi, bàn bạc, giải thích cho nhân dân trong việc hoạch định cũng như thực thi chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Người phân tích: Có người thường cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng. Đó là một sự sai lầm nguy hiểm lắm. Ai có sai lầm đó, phải mau mau sửa đổi. Nếu không sẽ luôn luôn thất bại. Chúng ta phải biết rằng: lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng.

          Người khẳng định rõ: Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra. Để có một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo và liêm khiết, thì mỗi công dân, mỗi cơ quan cần phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, và nâng cao cảnh giác đề phòng địch phá hoại.Các cơ quan phụ trách cần phải nghiêm khắc ngăn ngừa tham ô, lãng phí và kịp thời thi hành kỷ luật đối với những kẻ ngoan cố không chịu sửa đổi.

          Phải khuyến khích, bảo vệ người dân trong việc tích cực chống các bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu trong bộ máy nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chúng ta phải phát động tư tưởng của quần chúng làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp"28.

          Một trong những biện pháp quan trọng để xây dựng thành công nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân là phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng theo tinh thần Hồ Chí Minh: "Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo, thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười gấp trăm"29. 

        III. Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, cải cách nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân ở Việt Nam hiện nay.    

     Tiếp tục xây dựng nền hành chính nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là quyết tâm chính trị đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định mạnh mẽ.

    1. “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”30.

    Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực. Phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Tăng cường năng lực dự báo và khả năng ban hành chính sách thích ứng của Chính phủ trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tổ chức thực hiện Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 một cách toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả

2. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương.

 Khắc phục triệt để sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong bộ máy hành chính nhà nước. Tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành và ở địa phương, cơ sở nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của từng ngành, từng vùng, từng địa phương. Nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hiệu quả.

3. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo theo luật định.

 Thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương. Phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển đất nước.

4. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy cán bọ, công chức, viên chức đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín đối với nhân dân. Đổi mới đồng bộ các nội dung của công tác cán bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong bộ máy nhà nước.

5. “Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật”31.     

Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế bộ máy hành chính nhà nước. Triển khai mạnh mẽ việc xây dựng chính phủ điện tử, Chính phủ số, trong đó Cổng dịch vụ công Quốc gia là điểm khởi đầu quan trọng nhất của chương trình cải cách này. Tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Tập trung áp dụng công nghệ số để cải tiến mọi quy trình, thủ tục của các cơ quan hành chính-công vụ.

KẾT LUẬN

    Kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, cải cách nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân. Qua đó, thiết thực góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn địn. Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa./. 

PGS.TS.NGƯT  Nguyễn Thế Thắng

CHÚ THÍCH:


1 C. Mác và Ăng-ghen: Toàn tập, tập 22, Nhà xuất bản. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995, tr. 290 – 291.

2 C. Mác và Ăng-ghen: Toàn tập, tập 20, Nhà xuất bản. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1994, tr. 253.3.4.5 C. Mác và Ăng-ghen: Toàn tập, tập 1, Nhà xuất bản. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, trang 202; tr..95; tr.350.

6. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.253;

7.9.1011.12VI. Lênin: Về bộ máy của Đảng và Nhà nước, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985, tr.49; tr.44; tr.230; tr. 231; tr..229-230.

8V.I.Lênin: Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, , tr. 450.

13 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 44, Nxb. Tiến bộ, M, 1978, tr. 218.

14 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 36,  Nxb. Tiến bộ, M, 1978, tr. 346.

1516V.I.Lênin: Toàn tập, tập 45,  Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tr. 442; 446.

17Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 21.

18 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 232.

19 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 382.

20 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 68.

21 Hồ Chí Minh: Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990, tr. 14.

22 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 267.

23 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 53.

24 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, tr. 478.

25 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, tr. 21.

26 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, S.đ.d. tr. 127

27 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 374.

28 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 419.

29 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, S.đ.d, tr. 637.

30.31Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 176; tr.179.

 I. Chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo tạo, liêm chính phục vụ nhân dân. 1. Bản chất giai cấp và tính xã hội của nhà nước Các nhà kinh điển mácxít đã chỉ rõ bản chất của nhà nước là tính giai cấp - chức năng giai cấp và tính xã hội - chức năng xã hội. Nhà nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong một trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về kinh tế mới có thể lập và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước, giai cấp này thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và  có thêm phư

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn