Hội nhập quốc tế đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội hợp tác, phát triển, song bên cạnh đó cũng không ít khó khăn, thách thức. Đặc biệt, quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, tác động tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, đã và đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với năng lực của quốc gia và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng năng lực làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế hiện nay.

Bồi dưỡng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế
Bồi dưỡng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế

1. Chuyển đổi số và yêu cầu đổi mới hoạt động bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức

Chuyển đổi số được hiểu là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau1. Quá trình chuyển đổi số đòi hỏi các chủ thể thay đổi cả về tư duy, nhận thức và hành động; chuyển đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, làm việc… từ truyền thống, thủ công sang môi trường số, dựa trên nền tảng kỹ thuật số, trong đó ứng dụng dùng dữ liệu và công nghệ số để đổi mới quy trình tác nghiệp, mô hình và cách thức hoạt động của các cơ quan, tổ chức. 

Chuyển đổi số là quá trình tất yếu, khách quan và là xu thế toàn cầu, tác động tới mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế – xã hội, bao gồm cả khu vực tư và khu vực công, trong đó có hoạt động bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của chuyển đổi số quốc gia, tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã xác định: “Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số; đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số…”2. Thực hiện Nghị quyết số 52 -NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành nhiều văn bản, như: Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Quyết định số 942/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030”…

Đối với công tác bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, chuyển đổi số tác động ở tất cả các khía cạnh: 

Một là, về nội dung và hình thức, trong đó nội dung thể hiện rõ xu thế chuyển đổi số góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, từ đó đặt ra yêu cầu, đòi hỏi cao hơn đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về năng lực chuyên môn, năng lực ứng dụng công nghệ số và ngoại ngữ. Do vậy, cán bộ, công chức, viên chức cũng cần xây dựng và thực hiện tác phong làm việc chuyên nghiệp, có năng lực thích ứng, tự tin, độc lập khi làm việc trong môi trường quốc tế, am hiểu luật pháp quốc tế và văn hóa của các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau… Việc xác định chính xác các năng lực, phẩm chất cần thiết đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh mới sẽ làm căn cứ cho việc xây dựng các chương trình bồi dưỡng phù hợp với từng nhóm đối tượng. 

Về hình thức, chuyển đổi số đặt ra yêu cầu thay đổi hình thức giảng dạy, học tập bởi các hình thức giảng dạy, học tập truyền thống đã không còn đáp ứng được yêu cầu của cả người dạy và người học. Các mô hình giảng dạy, học tập tích hợp; mô hình giảng dạy, học tập tạo sự linh hoạt về thời gian, địa điểm học tập; tiết kiệm thời gian, chi phí quản lý, vận hành… ngày càng được ưa chuộng. Trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế, việc tận dụng tối đa công nghệ để hướng tới hình thức giảng dạy, học tập theo hướng hiện đại, hiệu quả, chất lượng nhằm nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức là tất yếu, khách quan.

Hai là, về quy trình tổ chức thực hiện bồi dưỡng, từ xác định nhu cầu, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện hay đánh giá bồi dưỡng cần từng bước ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa, làm tiền đề nhằm tạo ra các phương pháp tổ chức, quản lý hiệu quả, hiện đại, tiết kiệm. Hoạt động bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế cần quan tâm, tạo điều kiện tốt hơn về lựa chọn giảng viên, cơ sở đào tạo uy tín; thường xuyên theo dõi, cập nhập được tình hình, kết quả học tập của học viên theo học các chương trình; ứng dụng số hóa vào đánh giá hoạt động bồi dưỡng; đặc biệt, cần chú trọng tạo cơ hội sử dụng kết quả bồi dưỡng vào các công tác khác của quản lý cán bộ, công chức, viên chức (đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật…).

2. Thực trạng bồi dưỡng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức

Ở Việt Nam, đã có nhiều chương trình, đề án được ban hành và tổ chức thực hiện nhằm trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, như: Đề án 165 – Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước; Đề án bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho công chức, viên chức làm công tác hội nhập quốc tế giai đoạn 2016 – 2020; Đề án bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho cán bộ, công chức, viên chức làm công tác hội nhập quốc tế giai đoạn 2021 – 2025; Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 – 2030… Bên cạnh đó, các tỉnh, thành phố cũng chủ động xây dựng các chương trình bồi dưỡng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế dựa vào năng lực, điều kiện của địa phương mình.

(1) Về nội dung bồi dưỡng.

Các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế hiện nay khá đa dạng. Các ban, bộ, ngành ở trung ương hay các địa phương đều chủ động xây dựng các chương trình bồi dưỡng cho ngành, địa phương mình. Nội dung mỗi chương trình bồi dưỡng tập trung vào một hoặc một nhóm kiến thức, kỹ năng gồm: ngoại ngữ; nghiệp vụ đối ngoại; năng lực lãnh đạo; kỹ năng, phương pháp quản lý chuyên ngành; phương pháp thực hiện nhiệm vụ công vụ (tổ chức bộ máy nhà nước; xây dựng mô hình chính quyền đô thị; quản lý, xây dựng, phát triển đô thị; phát triển nông nghiệp công nghệ cao; kinh nghiệm cải cách hành chính; xây dựng pháp luật và hoạt động tư pháp…); quản lý công; chính sách công. Các chương trình bồi dưỡng chủ yếu tập trung cho nhóm đối tượng là cán bộ, công chức. Nhìn chung, chưa có nghiên cứu, khảo sát đầy đủ để xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng một cách khoa học, hiện đại, đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.

(2) Về phương thức bồi dưỡng.

Bồi dưỡng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong khu vực công ở Việt Nam được tổ chức theo nhiều phương thức: bồi dưỡng tập trung, bán tập trung, từ xa, bồi dưỡng trong nước, bồi dưỡng ở nước ngoài, bồi dưỡng kết hợp trong nước và nước ngoài… Ứng dụng công nghệ số đã từng bước được áp dụng trong học tập, giảng dạy. Bồi dưỡng ở nước ngoài được tổ chức theo các hình thức: cử tham gia các khóa đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ; cử tham gia các khóa bồi dưỡng hợp tác ngắn hạn; tổ chức các đoàn khảo sát, học tập kinh nghiệm; các đoàn tham gia các diễn đàn hội nghị, hội thảo quốc tế… Thời gian thực hiện bồi dưỡng có thể là các khóa ngắn hạn (khoảng 2 tuần); trung hạn (khoảng 3 tháng); và dài hạn (trên 3 tháng). Thời gian bồi dưỡng được đánh giá khá phù hợp với nội dung bồi dưỡng và phù hợp với các nhóm đối tượng khác nhau, nhất là nhóm cán bộ cấp chiến lược – đối tượng thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; cán bộ lãnh đạo cấp tổng cục, cục, vụ của các ban, bộ, ngành, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương; ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương.

(3) Về quá trình tổ chức thực hiện.

Quá trình tổ chức thực hiện các chương trình, đề án bồi dưỡng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chínhsách, pháp luật của Nhà nước và phân công, phân cấp về bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Các chương trình được xây dựng dựa trên việc xác định một số yêu cầu cơ bản về năng lực hội nhập quốc tế và làm việc trong môi trường quốc tế đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức để xây dựng nội dung, lựa chọn hình thức, lựa chọn đối tượng tham gia… Ngoài tổ chức, triển khai theo chương trình và đề án chung của trung ương, một số địa phương đã chủ động xây dựng các chương trình, đề án cụthể nhằm nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức địa phương mình, đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định, như: nội dung bồi dưỡng còn thiếu tính hệ thống và toàn diện; hình thức bồi dưỡng còn mang tính truyền thống, chưa đa dạng; thời gian bồi dưỡng tập trung chủ yếu là bồi dưỡng ngắn hạn do hạn chế về những điều kiện bảo đảm… 

Ngoài ra, còn có khó khăn về vận dụng, triển khai các mô hình, kiến thức được tích lũy thông qua quá trình học tập của cán bộ, công chức, viên chức sau khi được bồi dưỡng ở nước ngoài, bởi do có sự khác biệt về thể chế chính trị giữa Việt Nam và các nước khác.

3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh chuyển đổi số

Chuyển đổi số góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế được thực hiện nhanh chóng hơn. Để xây dựng và phát triển lực lượng cán bộ, công chức, viên chức đủ năng lực làm việc trong bối cảnh mới, cần chú ý một số nội dung sau: 

Thứ nhất, đổi mới về nội dung bồi dưỡng. Cần xác định khung năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ, công chức, viên chức; những tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể bảo đảm cán bộ, công chức, viên chức đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình bồi dưỡng. Bên cạnh các chương trình đã có (Đề án 165; các chương trình bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức làm công tác hội nhập quốc tế; chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức…), cần nghiên cứu, xây dựng khung chương trình chung bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức và các chương trình ở những cấp độ khác nhau theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chức vụ lãnh đạo, quản lý.

Các chương trình bồi dưỡng cần được tổ chức hằng năm, thường xuyên được bổ sung, cập nhật. Trong chương trình, xây dựng các chuyên đề có hàm lượng kiến thức chuyên môn dành cho các cán bộ, công chức, viên chức chuyên trách theo từng lĩnh vực và các chuyên đề chuyên sâu theo từng chủ đề, vấn đề mang tính thời sự, cấp thiết. Có sự cân đối giữa các nội dung và phân chia thời lượng phù hợp; có phương pháp nghiên cứu, giảng dạy, học tập phù hợp cho từng chuyên đề.

Thứ hai, đổi mới về phương thức bồi dưỡng. Đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức, như: đẩy mạnh việc kết hợp giữa bồi dưỡng trong nước và bồi dưỡng ở nước ngoài; thiết kế các module chương trình bồi dưỡng với sự trợ giúp của máy tính; bồi dưỡng áp dụng phương pháp mô hình hóa hành vi… Bên cạnh đó, tận dụng tối đa các thành tựu của khoa học – công nghệ, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả của các hình thức bồi dưỡng trong bối cảnh chuyển đổi số, như: áp dụnghệ thống quản trị học tập (Learning Management System – LMS) và triển khai thực hiện hệ thống dạy học trực tuyến E-learning trong bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế cho cán bộ, công chức, viên chức. 

Đặc biệt, khuyến khích và nâng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu, tự tích lũy tri thức và kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế của mỗi cá nhân cán bộ, công chức, viên chức. Các cơ quan, tổ chức thuộc khu vực công cũng cần quan tâm, xây dựng được môi trường văn hóa học tập cũng như môi trường thực hành để cán bộ, công chức, viên chức có cơ hội tiếp thu nhanh chóng, tập luyện và duy trì các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế tại cơ quan công tác.

Thứ ba, đổi mới trong quá trình tổ chức thực hiện. Cần mở rộng đối tượng tham gia bồi dưỡng, nhất là đội ngũ công chức chuyên môn, công chức trẻ và đội ngũ viên chức. Do bối cảnh chuyển đổi số đặt ra yêu cầu hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn, các chủ thể tham gia vào hoạt động hội nhập quốc tế cũng cần đa dạng hơn. Nghiên cứu đổi mới cơ chế lựa chọn trong bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. 

Xây dựng đội ngũ giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong nước đủ về số lượng, cao về chất lượng, được trang bị đầy đủ năng lực và phẩm chất đạo đức. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu ban hành quy định, cơ chế nhằm nâng cao chế độ đãi ngộ cho đội ngũ giảng viên, góp phần tạo động lực và nâng cao chất lượng giảng dạy. Ngoài ra, tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động bồi dưỡng, cần chú trọng lựa chọn cơ sở đào tạo có uy tín, chất lượng ở nước ngoài để hợp tác, trao đổi kinh nghiệm

Hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng số hóa vào hoạt động tổ chức, quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế là yêu cầu cơ bản, cấp bách. Mặt khác, cần thường xuyên theo dõi, cập nhập tình hình, kết quả học tập của cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình học tập cũng như đánh giá hoạt động bồi dưỡng để làm căn cứ cho các hoạt động khác của quản lý cán bộ, công chức, viên chức, như: đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật.

Chú thích:
1. Nguyễn Tuấn Anh. Thúc đẩy chuyển đổi số tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2020.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 225.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Đăng Quang, Vũ Thanh Sơn (đồng chủ biên). Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2022.
2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong bối cảnh xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài ở Việt Nam. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 10/10/2023.
3. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 19/9/2023.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. http://lyluanchinhtri.vnngày 12/9/2023.

TS. Bùi Huy Tùng
ThS. Nguyễn Thị Mai
Học viện Hành chính Quốc gia

1. Chuyển đổi số và yêu cầu đổi mới hoạt động bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức Chuyển đổi số được hiểu là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau1. Quá trình chuyển đổi số đòi hỏi các chủ thể thay đổi cả về tư duy, nhận thức và hành động; chuyển đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, làm việc… từ truyền thống, thủ công sang môi trường số, dựa trên nền tảng kỹ thuật số, trong đó ứng dụng dùng dữ liệu và công nghệ số để đổi mới quy trình tác nghiệp, mô hình và cách thứ

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn