Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người được biểu hiện đa dạng và vô cùng phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người. Tất cả đều toát lên tình yêu vô hạn, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin tuyệt đối vào con người. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi thì “Đầu tiên là công việc đối với con người”, tức là phải có chính sách xã hội đối với con người. Đó là những việc mà Đảng, Nhà nước đã và đang thực hiện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người Việt Nam hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người Việt Nam hiện nay

1. Đặt vấn đề

Tài sản quý giá nhất của mỗi một quốc gia chính là con người. Vì vậy, chìa khóa để phát triển đất nước chính là phải chăm lo phát triển con người và phát huy nguồn lực con người. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo, xây dựng phát triển con người mới toàn diện. Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã có những định hướng cho quá trình chăm lo phát triển con người Việt Nam. Sự phát triển của con người gắn liền với các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị. Những thay đổi của bối cảnh mới của đất nước đã giúp con người Việt Nam có bước phát triển theo hướng tích cực, tuy nhiên, vẫn còn có những vấn đề bất cập đang đặt ra trong xây dựng con người Việt Nam hiện nay. Vì vậy, đánh giá đúng thực trạng để tìm ra giải pháp chăm lo, phát triển con người Việt Nam chính là giải pháp mấu chốt để thúc đẩy sự phát triển bền vững của Việt Nam trong thời gian tới.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển của con người Việt Nam

Phát triển con người là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”1. Đồng thời, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cho Việt Nam trở thành một nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc thì phải chăm lo phát triển con người. Người khẳng định “Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”2. Do đó, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa có những yêu cầu cao về năng lực, phẩm chất, tư tưởng. Đảng ta khẳng định để thực hiện thành công mục tiêu của cách mạng Việt Nam, khẳng định sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa thì phải chăm lo phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện bởi lẽ “những ưu việt ấy không thể do ai đưa đến cho chúng ta, cũng không thể tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị – xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng”3. Con người vừa là mục tiêu vừa là chủ thể của mọi sự phát triển đất nước “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển…”4

Để phát triển đất nước phải phát huy mọi nguồn lực, cả nguồn lực nội sinh và nguồn lực bên ngoài trong đó nguồn lực nội sinh là chính và con người chính là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất “Tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”5. Vì vậy, phát triển con người của Việt Nam phải hướng tới việc đáp ứng yêu cầu mới của đất nước, đó là: “Phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế  – xã hội, khoa học – công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”6. Để con người Việt Nam đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững đất nước thì phải phát triển toàn diện như quan điểm, chủ trương xây dựng con người cả về đức, trí, thể mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển của con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”7. Trước hết, con người Việt Nam phải có sức khỏe tốt, cơ thể cường tráng, mạnh khỏe, không bệnh tật bởi “Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó”8. Sức khỏe luôn là vốn quý giá nhất của mỗi con người. Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh trọng tâm trong xây dựng con người chính là trí tuệ, phẩm chất, đạo đức “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc”9

Để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và hội nhập quốc tế, trong nhân tố về trí tuệ, năng lực làm việc, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh đến việc xây dựng con người Việt Nam thành những công dân toàn cầu, có ngoại ngữ, công nghệ số, công nghệ thông tin. Trong bối cảnh hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam rất chú ý tới vấn đề đạo đức, lối sống, phẩm chất của con người Việt Nam theo đúng tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh đức là gốc, có đức mới phát huy được hết tài năng, trí tuệ của con người Việt Nam để “… xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”10.  

Vì vậy, Đảng ta chủ trương kết hợp hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại trong xây dựng con người Việt Nam hiện nay. Toàn Đảng, toàn dân quán triệt quan điểm của Đảng, chăm lo xây dựng, phát triển con người Việt Nam và thực tế trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển con người. Có thể nói, Việt Nam liên tục có sự tăng trưởng về chỉ số HDI cũng như thăng hạng trên bảng xếp hạng thế giới. Chỉ số HDI đã tăng gần 50% trong khoảng thời gian từ năm 1990 – 2022, năm 1990 là 0,49311 thì năm 2019: 0,703; năm 2020: 0,706; năm 2021: 0,726 và năm 2022: 0,73712. Vào những năm 90 thế kỷ XX, khi UNDP bắt đầu giới thiệu HDI, Việt Nam ở vị trí cuối bảng xếp hạng. Năm 2010, Việt Nam xếp hạng thứ 128/187 nước trên thế giới, đứng thứ 33/47 nhóm các nước có chỉ số HDI trung bình, năm 2018, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 2/37 nước thuộc nhóm các nước có chỉ số HDI trung bình và xếp thứ 118/189 quốc gia trên thế giới về chỉ số HDI13,  năm 2022, Việt Nam đã vươn lên thứ hạng 107 trên 193 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số HDI14.

Đánh giá sự phát triển của con người ở Việt Nam trên từng mặt. Trước hết là về thể chất, sức khỏe, chúng ta cũng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam không ngừng tăng lên. Năm 1995, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 65,2 tuổi, năm 2000 là 67,8 tuổi, năm 2001 là 67,8 tuổi15. Đến năm 2023, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 74,5 tuổi16. Nếu năm 1985, trước đổi mới, cứ hai trẻ em thì có một trẻ bị suy dinh dưỡng đến năm 1998 giảm xuống còn 38,7%17, đến năm 2022, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi là 10,8% và suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi là 19%18. Tình trạng suy dinh dưỡng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tăng tỷ lệ mắc bệnh và nguy cơ tử vong. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng không chỉ cải thiện chiều cao, cân nặng mà còn tăng cường sức khỏe của người dân và cũng đã được cải thiện hơn so với thế hệ trước.

Về mặt trí tuệ có sự phát triển mạnh mẽ, để lại những dấu ấn với những con số ấn tượng. Số năm đi học trung bình của người Việt Nam tăng từ 4,6 năm (1980) lên 6,4 năm (2010)19 tăng lên 8,5 (năm 2016), 8,6 (năm 2017); 8,7 (năm 2018); 9,0 (năm 2019) và 9,1 (năm 2020)20. Đến năm 2023, số năm đi học bình quân của Việt Nam là 10,2 năm, đứng thứ hai chỉ sau Singapore theo xếp hạng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á21

Về mặt phẩm chất, đạo đức, lối sống, một số giá trị văn hóa tích cực tốt đẹp của con người Việt Nam truyền thống vẫn được phát huy như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, hiếu học, cần cù…; đồng thời, cũng có những nét phẩm chất nhân cách mới, như: ý thức tuân thủ pháp luật, sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, bản lĩnh cá nhân, sự tự do, dân chủ…

Những thành tựu trong phát triển con người Việt Nam thời gian qua gắn liền với những bước phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Trước hết là thu nhập của người Việt Nam tăng, đây vừa là yếu tố cấu thành chỉ số phát triển con người (HDI) nhưng cũng là cơ sở, nền tảng để phát triển con người. Có thu nhập, con người mới có điều kiện để chăm sóc sức khỏe và được học hành để nâng cao sự phát triển về thể chất và trí tuệ của mình. Thu nhập bình quân đầu người của người năm 2023 là 4.284,5 USD22. Cùng với đó sự phát triển về giáo dục, y tế về các chỉ số trường học, giáo viên, bác sĩ cũng như chất lượng giảng dạy, khám, chữa bệnh nâng lên, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển con người Việt Nam. 

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu trên, cũng còn những hạn chế, bất cập. Về mặt thể lực, chiều cao, cân nặng của người Việt Nam so với thế giới còn rất khiêm tốn. Trong vòng gần 40 năm đổi mới, chiều cao của người Việt Nam chỉ tăng 0,03 m, tức là mỗi một thập kỷ, người Việt Nam chỉ tăng thêm 0,01 m chiều cao, có thể nói thuộc nhóm thấp nhất thế giới. Vì vậy, để cao như người Hà Lan hiện nay sẽ mất 217 năm, để cao như người Đức sẽ mất khoảng 182 năm23

Mặc dù chất lượng nguồn nhân lực, trí tuệ của con người Việt Nam được nâng lên song so với thế giới thì vẫn còn thấp. Nguồn nhân lực qua đào tạo có bằng cấp ở Việt Nam là 27% thì tỷ lệ này ở Indonesia là 42%, ở Malaysia con số này lên đến 66,8%24. Thậm chí những lao động đã qua đào tạo có bằng cấp nhưng vẫn thiếu các kiến thức, kỹ năng để đáp ứng được yêu cầu công việc. Theo số liệu khảo sát từ 500 doanh nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh có đến 94% trường hợp nhân viên mới (sinh viên mới ra trường đi làm) cần được đào tạo lại để đáp ứng nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp. Trong đó, các nội dung cần đào tạo lại có 92% về nghiệp vụ chuyên môn, 61% về kỹ năng mềm cơ bản, 53% về kỹ năng quản lý và lãnh đạo25. Chính vì nguồn nhân lực của Việt Nam đang ở tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, thiếu nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công việc nhưng thừa lao động phổ thông, giản đơn: “73% doanh nghiệp có báo cáo rằng họ gặp khó khăn trong tuyển dụng những lao động cho vị trí quản lý, 61% gặp khó khăn để tuyển dụng người lao động có kỹ năng phù hợp”26.

Sự chưa đáp ứng về chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức để đáp ứng yêu cầu công việc là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới năng suất lao động của lao động Việt Nam thấp nhiều so với thế giới, thậm chí là so với khu vực. Đặc biệt, con người Việt Nam thời gian qua còn có nhiều hạn chế về mặt đạo đức, lối sống, lý tưởng, tư tưởng. Đảng ta nói là sự xuống cấp của đạo đức xã hội “sự suy giảm về đạo đức, tư tưởng của không ít người, nhất là lớp trẻ, thậm chí của cả một số cán bộ, Đảng viên thoái hóa, biến chất. Cùng với đó là sự xuất hiện các yếu tố tiêu cực khác như chủ nghĩa cục bộ địa phương, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật chất, xa hoa, lãng phí,…”27. Những mặt hạn chế của con người Việt Nam truyền thống như cục bộ địa phương, duy tình, nặng về quan hệ, dẫn đến thiếu khách quan, công tâm, thiếu tầm nhìn, ghen ghét, đố kỵ, níu kéo nhau, ý thức pháp luật kém… vẫn chưa được loại bỏ, đồng thời lại có thêm những biểu hiện tiêu cực của xã hội mới, như: thực dụng, hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân,từ đó dẫn tới không có tình nghĩa đang xâm nhập vào một số người Việt Nam hiện nay. Có lẽ xuất phát từ thực trạng đó mà Đảng đã nhấn mạnh đến việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay.

4. Một số giải pháp phát triển con người Việt Nam toàn diện 

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) nêu rõ: “Kinh nghiệm vô giá mà chúng ta khái quát được trong lịch sử lâu dài và đầy khắc nghiệt của dân tộc ta là: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam. Con người Việt Nam là tài sản quý báu nhất của Tổ quốc ta và chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta”28. Vì vậy, chăm lo phát triển là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta, của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để con người Việt Nam thực sự là tài sản quý giá thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đất nước cũng đòi hỏi sự tham gia của mọi lực lượng toàn Đảng, toàn dân với những giải pháp đồng bộ, kết nối với nhau, cụ thể là:

Thứ nhất, tập trung nguồn lực thực hiện tốt “Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 – 2030”. Chúng ta đã đề ra mục tiêu về tầm vóc cũng như thể lực của con người Việt Nam đến năm 2030. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi tiến hành nhiều công việc. Trước hết, để cải thiện giống nói cần chú ý đến chính sách chăm sóc, sức khỏe bà mẹ từ lúc thai kỳ cũng như chăm sóc sức khỏe trẻ em. Nâng cao chất lượng, mở rộng số lượng các cơ sở khám, chữa bệnh, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân để mọi người đều có khả năng tiếp cận với cơ hội chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng khám,chữa bệnh ở tuyến dưới, ở cơ sở và khám, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Phát triển phong trào thể dục, thể thao toàn dân, phát huy tinh thần tập luyện thể dục trong toàn dân. Đồng thời, cần giáo dục các kiến thức về chăm sóc sức khỏe cho toàn dân từ duy trì lối sống khoa học, ăn uống, dinh dưỡng điều độ đến các kiến thức về phòng bệnh. Nhà nước còn cần quản lý tốt vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, vấn đề ô nhiễm môi trường, gia tăng các không gian xanh để góp phần nâng cao sức khỏe của người dân.

Thứ hai, đổi mới giáo dục và đào tạo căn bản và toàn diện nhằm nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam. Muốn có những con người phát triển toàn diện thì phái chú giáo dục toàn diện, chúng ta đang chuyển từ nền giáo dục nhấn mạnh đến trang bị kiến thức sang phát triển năng lực người học. Cần chú ý đến cả giáo dục kiến thức lẫn phẩm chất, đạo đức, các kỹ năng mềm với phương châm học để làm việc và học để làm người. Từ chính những phẩm chất, năng lực cần có của con người Việt Nam trong thời đại mới để định hướng cho các hoạt động giáo dục từ nội dung đến phương pháp. 

Thứ ba, nâng cao chất lượng của các hoạt động văn hóa hướng đến việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Vì vậy, cần sớm khắc phục những bất cập trong các hoạt động văn hóa để góp phần vào nâng cao tri thức, bồi dưỡng trí thức, phát triển các phẩm chất, đạo đức, lối sống của con người Việt Nam hiện nay. Đây là một giải pháp lớn đòi hỏi tất cả các hoạt động từ văn hóa nghệ thuật, báo chí xuất bản các phương tiện truyền thông, bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa, lễ hội, các phong trào hoạt động văn hóa… đều nhằm vào xây dựng con người Việt Nam. Đặc biệt, cần chú ý xây dựng môi trường văn hóa chứa đựng các giá trị văn hóa tiêu biểu để góp phần xây dựng con người Việt Nam từ môi trường trong gia đình, nhà trường, các cơ quan, đơn vị của xã hội. 

Thứ tư, khơi thông mọi nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội để chăm lo, phát triển con người Việt Nam. Khơi thông mọi nguồn lực, xóa bỏ những điểm nghẽn tạo ra sự bứt phá trong phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập của người dân Việt Nam – tạo cơ sở, tiền đề và là nội dung của phát triển con người. Đảng ta đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước thu nhập trung bình cao và năm 2045 trở thành nước thu nhập cao, vì vậy cần phát huy mọi nguồn lực để thực hiện tốt mục tiêu này. Đồng thời phát triển kinh tế gắn với việc bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội để bảo đảm mọi người dân Việt Nam đều được hưởng thành quả của sự phát triển, đều được quan tâm phát triển. 

Thứ năm, xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay để định hướng cho quá trình phát triển con người. Đồng thời, cần phát huy vai trò của từng người trong việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam, xây dựng tình yêu bản thân cũng như trách nhiệm cá nhân, lòng tự tôn, tự cường, ý chí nỗ lực vươn lên vượt mọi khó khăn để phát triển năng lực bản thân, hoàn thiện cá nhân. Đồng thời, cần xây dựng cho con người Việt Nam ý chí, bản lĩnh vượt qua những cám dỗ để đảm bảo chiến thắng cái ác, phát triển phần tốt đẹp trong mỗi con người.

5. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người được biểu hiện đa dạng và vô cùng phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người. Xây dựng và phát triển con người Việt Nam theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự cấu thành các yếu tố đức, trí, thể, mỹ tạo nên phẩm chất, năng lực (đức và tài) và bản lĩnh của con người, mang tính nhân văn sâu sắc. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi thì “Đầu tiên là công việc đối với con người”, tức là phải có chính sách xã hội đối với con người. Và cuối cùng Người cũng “chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”29. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người trong thời kỳ đổi mới và những thành tựu đó chính là cơ sở để chúng ta bứt tốc phát triển, đưa đất nước bứt phá, vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 375.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.281
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993). Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr 5 – 6.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 76.
5, 6, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIITập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 116, 136, 143.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 114.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994). Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII). H. NXB Chính trị quốc gia, tr.16 – 17.
9, 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 219, 19.
11. Hành trình phát triển con người của Việt Nam: Thành tựu, thách thức và tầm quan trọng của hợp tác đa phương. https://www.undp.org/vi/vietnam/blog/hanh-trinh-phat-trien-con-nguoi-cua-viet-nam-thanh-tuu-thach-thuc-va-tam-quan-trong-cua-hop-tac-da-phuong
12. Tổng cục Thống kê (2023). Niên giám thống kê năm 2022. H. NXB Thống kê, tr. 981.
13, 19, 23. Lương Đình Hải (2020). Xây dựng và phát triển con người Việt Nam hiện nay góp thêm một vài ý kiến. Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5/2020.
14. Việt Nam nằm trong nhóm cao về Chỉ số phát triển con người (HDI). https://dangcongsan.vn/thoi-su/viet-nam-nam-trong-nhom-cao-ve-chi-so-phat-trien-con-nguoi-hdi-661241.htmlg
15. Tăng tuổi thọ bình quân ở Việt Nam mục tiêu, tiến độ và cảnh báo. https://vietnamembassy-usa.org/vi/tin-tuc/2003/09/tang-tuoi-tho-binh-quan-o-viet-nam-muc-tieu-tien-do-va-canh-bao
16, 18. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2024). Niên giám thống kê năm 2023. H. NXB Thống kê, tr. 144, 981.
17. Hoạt động của Quốc hội.  https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=25778&CategoryId=0, truy cập ngày 20/9/2024.
20. Chỉ số phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020.https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/08/26/chi-so-phat-trien-con-nguoi-viet-nam-giai-doan-2016-2020/
21. Tổng quan về Việt Nam. https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam, ngày 19/4/2024.
22. GDP và GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay. https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/ho-tro-phap-luat/tu-van-phap-luat/60231/gdp-va-gdp-binh-quan-dau-nguoi-cua-viet-nam-hien-nay
24. Vì sao nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều hạn chế? https://daibieunhandan.vn/trao-doi/vi-sao-nguon-nhan-luc-viet-nam-con-nhieu-han-che–i302374/, ngày 3/10/2023
25. 94% sinh viên ra trường phải đào tạo tiếp. https://thanhnien.vn/94-sinh-vien-ra-truong-phai-dao-tao-tiep-185114988.htm
26. Khan hiếm nhân lực chất lượng cao do doanh nghiệp Việt Nam “lười” đào tạo? https://vov.vn/xa-hoi/khan-hiem-nhan-luc-chat-luong-cao-do-doanh-nghiep-viet-nam-luoi-dao-tao-post975787.vov
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 93.
29. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 1

TS. Đặng Văn Luận
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
TS. Vũ Thị Hồng Trang
Học viện Chính trị khu vực I

1. Đặt vấn đề Tài sản quý giá nhất của mỗi một quốc gia chính là con người. Vì vậy, chìa khóa để phát triển đất nước chính là phải chăm lo phát triển con người và phát huy nguồn lực con người. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo, xây dựng phát triển con người mới toàn diện. Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã có những định hướng cho quá trình chăm lo phát triển con người Việt Nam. Sự phát triển của con người gắn liền với các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị. Những thay đổi của bối cảnh mới của đất nước đã giúp con người Việt Nam có bước phát triển theo hướng tích cực, tuy nhiên, vẫn còn có những vấn đề bất cập đang đặt ra

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân

Gửi bình luận của bạn