Trong thời gian qua, có nơi, có lúc việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách còn mang tính hình thức, dẫn đến những sai lầm, thiếu sót, gây nên những thiệt hại to lớn cho đất nước và sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Một trong những nguyên nhân là do chưa hiểu đúng về mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, qua đó đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng này trong công tác xây dựng Đảng giai đoạn hiện nay.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

1. Đặt vấn đề

Để xây dựng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”1, “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”2, theo Hồ Chí Minh phải “giữ đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách…”3 bởi vì nó là “nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng…”4. Người yêu cầu: “những người cán bộ phải thực hành cho kỳ đúng cái chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”5. Tuy nhiên, “Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm”6. Điều này, dẫn đến tình trạng hoặc là quá coi trọng vai trò cá nhân, coi nhẹ vai trò tập thể, hoặc là đùn đẩy, ỷ nại, sợ trách nhiệm, không dám làm… Do đó, lúc sinh thời, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Từ tỉnh, huyện đến chi bộ, phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách”7. Muốn thực hiện đúng theo yêu cầu của Bác, trước hết chúng ta phải hiểu đúng về mối quan hệ biện chứng giữa “lãnh đạo tập thể” và “cá nhân phụ trách”.  

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách

Một là, tập thể lãnh đạo là cơ sở, nền tảng cho cá nhân phụ trách

Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là hai vế không thể tách rời của một nguyên tắc. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh nhắc đến “tập thể lãnh đạo” nhiều hơn với tổng cộng 21 lần so với 13 lần Người nhắc đến “cá nhân phụ trách”. Trong đó, có 10 lần Người chỉ nhắc đến cụm từ “tập thể lãnh đạo”, trong khi “cá nhân phụ trách” chỉ được nhắc riêng 2 lần. Điều đó cho thấy, Người rất coi trọng vai trò lãnh đạo của tập thể, bởi đó chính là biểu hiện cụ thể của dân chủ trong Đảng. Mà dân chủ trong Đảng là cơ sở thực hiện dân chủ ngoài xã hội, nhằm xây dựng một Đảng cầm quyền vững mạnh, một “xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”8

Người cho rằng, để tránh khỏi những sai lầm trong việc lãnh đạo cần phải phát huy vai trò của tập thể. “Vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề”9. Chính vì vậy, nếu không phát huy được vai trò tập thể trong quá trình lãnh đạo, xây dựng đường lối, chiến lược, sách lược sẽ dẫn đến hệ lụy vô cùng nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng.

Những hệ lụy ấy có thể là cách làm việc quan liêu, thích dùng mệnh lệnh, áp đặt hơn là bàn bạc dân chủ hoặc tự mình lên kế hoạch, viết chỉ thị, chương trình rồi bắt cấp dưới phải làm theo, không nghe góp ý, không cần biết đúng sai. Kết quả là “các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử, cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra”10. Không những thế, nếu cán bộ, đảng viên muốn nói mà không dám nói, muốn ý kiến mà “cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi lại bị “trù” … nên họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác”11.

Thực hiện không đúng, không nghiêm nguyên tắc tập thể lãnh đạo còn sinh ra bệnh dân chủ hình thức, gây mất đoàn kết trong Đảng, đồng thời không phát huy được trí tuệ tập thể. Kết quả là đường lối, chủ trương của Đảng có thể sẽ có nhiều khiếm khuyết, thậm chí là sai lầm. Từ đó, Người khẳng định: “Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”12. Như vậy, tập thể lãnh đạo chính là phát huy trí tuệ, tinh thần trách nhiệm của nhiều người trong việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách nhằm tránh những sai lầm không đáng có trong quá trình lãnh đạo, ra quyết định. 

Tập thể lãnh đạo là cái gốc của thành công, là cái có trước. Do đó, nếu làm tốt công các tập thể lãnh đạo, mỗi ý kiến của cá nhân trong tập thể như một rễ cây, càng nhiều ý kiến thì cái gốc càng vững, chủ trương, đường lối, quyết định đưa ra càng ít sai lầm. Đó cũng chính là điều kiện căn cốt của thành công, là cơ sở để giúp cho cá nhân phụ trách thực hiện và hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao. Ngược lại, nếu không thực hiện tốt tập thể lãnh đạo sẽ dẫn đến những quyết định lãnh đạo mang tính cá nhân, duy ý chí, không thực chất, dễ sai lầm. Khi đó có giao cho cá nhân phụ trách họ cũng không dám làm vì đường lối, chủ trương, nghị quyết đã sai ngay từ khi ban hành. 

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở Đảng ta: “Phải định rõ chế độ làm việc, đảm bảo nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, tức là tập thể lãnh đạo”13. Người cũng nhận thấy “Đảng ta có tập thể lãnh đạo, nhưng còn thiếu sót”14. Người cho rằng: “Để sửa chữa những thiếu sót đó, chúng ta cần phải tăng cường tập thể lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, trong Đảng và trong cơ quan chính quyền”15.

Hai là, thực hiện tốt cá nhân phụ trách góp phần củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo tập thể

Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý…”16. Như vậy, chủ trương đường lối, nghị quyết của Đảng chính là vấn đề của lý luận, của tư duy nên phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm, bởi thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Tuy nhiên, muốn thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn của những chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết thì điều đầu tiên phải đưa nó vào thực tiễn, nghĩa là phải có cá nhân phụ trách. 

Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Vì sao cần phải cá nhân phụ trách?”17. Người cho rằng: “Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong”18. Như vậy, có thể hiểu cá nhân phụ trách chính là quá trình đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn. Do đó, nếu cá nhân phụ trách tốt, không chỉ công việc được thông suốt mà còn góp phần kiểm nghiệm tính đúng đắn của những chủ trương, đường lối đã đưa ra, kịp thời phát hiện những thiếu sót, sai lầm, những phát sinh trong quá trình triển khai để bổ sung hoàn thiện. Muốn làm được như vậy, tất yếu chúng ta phải làm tốt công tác cán bộ bởi vì, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”19, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”20. Cán bộ tốt thì công việc mới chạy, “có cán bộ tốt, việc gì cũng xong”21 và ngược lại.

Nếu không thực hiện tốt cá nhân phụ trách sẽ dẫn đến đường lối, chủ trương, chính sách dù có được bàn bạc kỹ đến đâu, dù có đúng đắn đến đâu nhưng không đi vào được thực tiễn, không đem lại kết quả trong thực tiễn thì vai trò “tập thể lãnh đạo” cũng sẽ lu mờ. Đó cũng chính là cơ hội để các thế lực thù địch phủ nhận nguyên tắc “lãnh đạo tập thể”, qua đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, nó còn sinh ra vô số căn bệnh trong Đảng và bộ máy chính quyền, như: sợ trách nhiệm, không dám làm, dựa dẫm, đùn đẩy, giống như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”22.

Vì vậy, mục đích của cá nhân phụ trách là tạo ra tính chuyên trách, gắn với trách nhiệm cá nhân để giải quyết công việc một cách tốt nhất. Do đó, vai trò của cá nhân phụ trách là rất quan trọng.  Người yêu cầu: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”23, nghị quyết của tập thể mới trở thành hiện thực, đem lại lợi ích cho cách mạng, cho dân tộc, khi đó nhân dân mới tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, “cá nhân phụ trách” tốt sẽ góp phần củng cố vai trò “lãnh đạo tập thể” và ngược lại.

Ba là,“Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”24

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là hai mặt thống nhất với nhau trong một chỉnh thể của vấn đề lãnh đạo. Trong mối quan hệ đó, chúng ta không được phép tuyệt đối hóa bất cứ mặt nào mà phải luôn xem xét nó trong mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, gắn bó mật thiết với nhau. Đảng ta cũng khẳng định: “lãnh đạo tập thể là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng thời kết hợp với phân công phụ trách”25

Theo Hồ Chí Minh, nếu chúng ta tuyệt đối hóa tập thể lãnh đạo mà không quan tâm đến cá nhân phụ trách “thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ”26. Biểu hiện của nó chính là nghị quyết đã ra, chỉ thị đã có, nhưng không ai thi hành, trông chờ, ỷ nại cho người này, người nọ. Điều đó, khiến cho nghị quyết chỉ thị dù có đúng vẫn chỉ nằm trên giấy, không có tác dụng gì.

Ngược lại, nếu chúng ta tuyệt đối hóa cá nhân phụ trách mà bỏ qua tập thể lãnh đạo nghĩa là chúng ta bỏ qua trí tuệ của tập thể, mà một người dù “có tài giỏi, học cao, nhiều kinh nghiệm, trải qua nhiều công việc nhưng vẫn là chưa đủ, chưa thể lấy cái “đã biết” thay thế “cái mới cần phải biết’”27. Bên cạnh đó, nó còn dẫn “đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan”28, thái độ công thần, kiêu ngạo, coi thường tập thể, coi khinh quần chúng, khi có công thì nhận về mình nhưng khi sai phạm thì đổ lỗi và đẩy trách nhiệm cho tập thể.

Như vậy, dù là tuyệt đối hóa mặt nào, thì “Kết quả cũng là hỏng việc”29. “Vì lẽ đó, cho nên lãnh đạo cần phải tập thể, mà phụ trách cần phải cá nhân”30, cả hai phải luôn đi đôi với nhau, không thể tách rời. “Nhưng không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được, cũng đưa ra bàn – mới là tập thể lãnh đạo”31. Người khẳng định: “Nếu làm như vậy, là hiểu tập thể lãnh đạo một cách quá máy móc. Kết quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ”32. Đôi khi có “những việc bình thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng, mới cần tập thể quyết định”33. Do đó, khi thực hiện nguyên tắc này phải tránh rơi vào một trong hai thái cực: Hoặc là bình thường hóa mọi công việc để tự quyết định, dẫn đến độc đoán, chuyên quyền, đứng trên tập thể, coi thường tập thể dẫn đến sai phạm. Hoặc là, việc gì cũng trông chờ, dựa dẫm vào tập thể dẫn đến chậm trễ, ỷ nại, mất đi tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của cán bộ, đảng viên và trách nhiệm người đứng đầu. 

Để xứng đáng là người lãnh đạo, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, đóng góp ý kiến cho tập thể trong lúc bàn bạc để ra quyết định, đồng thời khi được giao phụ trách thì phải làm đúng kế hoạch, đúng nghị quyết của tập thể. Hồ Chí Minh khẳng định: “Người nào có chân trong một ủy ban nào mà làm biếng không đến dự mọi cuộc hội nghị của ban ấy, hoặc không cân nhắc suy nghĩ kỹ lưỡng những vấn đề cần phải bàn bạc và giải quyết hoặc không phát biểu hết ý kiến của mình đối với vấn đề ấy, là trái với nhiệm vụ của mình…”34. Ngược lại, “Người nào phụ trách thi hành, mà không làm đúng kế hoạch do đa số đã quyết định, là làm trái với nhiệm vụ của mình…”35. Do đó, nếu không tham gia bàn bạc, nêu ý kiến thì khi được giao phụ trách rất dễ làm sai do không hiểu thấu vấn đề. Trái lại, nếu chỉ nêu ý kiến mà không dám phụ trách hoặc khi được giao phụ trách lại không làm đúng kế hoạch, đúng nghị quyết của tập thể thì cũng trái với nhiệm vụ của một người lãnh đạo. 

Như vậy, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách là hai mặt của một vấn đề, kết hợp với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Trong đó, “tập thể lãnh đạo” là gốc, là cái có trước, “cá nhân phụ trách” là cái có sau, có nghị quyết, chủ trương, đường lối rồi mới phân công cho từng cá nhân phụ trách. Do đó, khi bàn bạc, quyết định chủ trương, đường lối chúng ta phải nhấn mạnh “tập thể lãnh đạo”. Khi tổ chức thực hiện chúng ta cần nhấn mạnh đến “cá nhân phụ trách”. Thực hiện đúng nguyên tắc này còn là cơ sở để phát hiện những cán bộ có phẩm chất, năng lực để đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc vào các vị trí lãnh đạo, đồng thời loại bỏ cán bộ nói thì rất hay mà làm thì không ra gì, nói không đi đôi với làm. 

3. Một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Trong hơn 90 năm qua, Đảng ta đã luôn bám sát và thực hiện tốt nguyên tắc này, chính điều đó đã giúp Đảng đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn, tổ chức thực hiện hiệu quả, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để giành thắng lợi. Tuy nhiên, cũng có lúc, có nơi, việc hiểu và thực hiện nguyên tắc này còn mang nặng tính hình thức, không thực chất, dẫn đến tuyệt đối hóa mặt này hoặc mặt kia, chưa xem xét hai mặt đó trong mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó tập thể lãnh đạo quyết định cá nhân phụ trách, cá nhân phụ trách tác động ngược trở lại tập thể lãnh đạo. Chính vì vậy, có giai đoạn cách mạng gặp khó khăn trắc trở, có những lúc vai trò lãnh đạo của Đảng bị xem nhẹ, có những lúc lãnh đạo lại lấn sân sang quản lý, phụ trách, giữa lãnh đạo và quản lý, phụ trách có sự chồng chéo lẫn nhau, không rõ ràng, đặc biệt trong những năm gần đây. 

Nghị quyết Trung ương IV (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên là “do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân”36. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, chúng ta cần:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả của tập thể lãnh đạo trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng.

Để làm được điều này thì cần phát huy hơn nữa dân chủ trong Đảng, để cán bộ Đảng viên dám nói, dám phát biểu, dám đóng góp ý kiến. Người khẳng định “trong lúc khai hội, cấp trên để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát…”37. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về trình độ lý luận, đạo đức và chuyên môn để họ có đủ phẩm chất, năng lực góp ý cho các chủ trương, chính sách một cách hiệu quả, thực chất. Đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ, đảng viên không xứng đáng, ngồi im không ý kiến, “ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ”38. Đồng thời, cần phải bảo lưu những ý khác biệt trên tinh thần tôn trọng, cầu thị, học hỏi lẫn nhau.

Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chuyên môn, như: Ủy ban kiểm tra, thanh tra các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn những sai phạm trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết. Không để tình trạng sai phạm rồi mới xử lý khiến cho Đảng mất cán bộ, Nhân dân mất niềm tin vào Đảng, vào chính quyền, gây những thiệt hại cả về vật chất lẫn con người. Hồ Chí Minh khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”39. Thực tiễn những sai phạm trong những năm gần đây mà Ủy ban kiểm tra Trung ương đã chỉ ra, phần lớn là vi phạm nguyên tắc “tập thể lãnh đạo”. Những cá nhân lãnh đạo “vi phạm đến mức phải kỷ luật” đã dùng quyền lực của mình được tập thể giao phó hoặc lợi dụng các kẽ hở trong các quy định để tự quyết các vấn đề mà lẽ ra phải mang ra để tập thể bàn bạc, quyết định.

Thứ hai, phát huy vai trò trách nhiệm của cá nhân phụ trách. 

Để nâng cao hiệu quả của cá nhân phụ trách cần phải có cơ chế, quy định phân công, phân nhiệm rõ ràng, gắn trách nhiệm cá nhân với công việc được giao phụ trách, khắc phục tình trạng dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể hoặc độc đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể, có công thì nhận về mình, có lỗi đẩy trách nhiệm cho tập thể. Bên cạnh đó, cần ban hành các chính sách để tăng cường thẩm quyền, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu, tinh thần dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu song song với cơ chế giám sát quyền lực một cách chặt chẽ, hiệu quả. 

Làm tốt công tác cán bộ từ khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, thử thách để bảo đảm người được giao phụ trách phải có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ, có tinh thần trách nhiệm cao, hăng hái, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đó phải là “những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn…Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn”40. Chấp nhận những cách làm mới, sáng tạo vượt ra khỏi khuôn khổ quy định nhưng không vì lợi ích cá nhân mà vì lợi ích chung của tập thể, đem lại những lợi ích cho đất nước, cho Nhân dân. Đồng thời, tránh hai căn bệnh mà Hồ Chí Minh chỉ ra là “không có sáng kiến”, ý kiến khi bàn bạc và “sợ phụ trách”, làm không đúng quyết định của tập thể khi phụ trách thi hành.

Thứ ba, phải luôn đặt tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách trong mối quan hệ biện chứng không thể tách rời, không được phép tuyệt đối hóa bất cứ mặt nào.

Tập thể lãnh đạo là cái có trước, quyết định cá nhân phụ trách, làm tốt tập thể lãnh đạo sẽ đề ra được chủ trương, đường lối, nghị quyết đúng đắn. Đó cũng chính là cơ sở để cá nhân phụ trách hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Do đó, chủ trương, đường lối, nghị quyết trước khi được ban hành phải đưa ra bàn bạc kỹ lưỡng, rõ ràng, tạo nên sự đồng thuận cao trong tập thể, có như vậy cá nhân phụ trách mới mạnh dạn thực hiện mà không sợ sai. Qua đó, cũng tránh được căn bệnh sợ sai, sợ trách nhiệm, sợ kỷ luật, đùn đẩy, dựa dẫm. 

Cá nhân phụ trách trên cơ sở tập thể lãnh đạo, nghĩa là phải quyết tâm thực hiện cho đúng, cho hiệu quả những vấn đề tập thể đã bàn bạc, thống nhất, quyết định. Chỉ khi quyết định của tập thể được thực hiện và đem lại hiệu quả thực tiễn nó mới có giá trị, qua đó chứng minh tính đúng đắn của các quyết định tập thể. Để cá nhân phụ trách hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, ngoài việc lựa chọn được những cán bộ, đảng viên “có gan phụ trách, có gan làm việc”41 thì khi giao nhiệm vụ, cũng cần phải bàn bạc kỹ lưỡng với cán bộ đó, “phải chỉ đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ, vạch rõ những điểm chính, và những khó khăn có thể xảy ra…. Nếu họ gánh không nổi, chớ miễn cưỡng trao việc đó cho họ. Khi đã trao cho họ phải hoàn toàn tin họ”42

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Những vấn đề đã quyết định rồi, thả cho họ làm, khuyên gắng họ cứ cả gan mà làm”43. Nghĩa là, chúng ta cũng không nên cứng nhắc, máy móc mà nên xây dựng những quy định rõ ràng, đồng thời tạo không gian cho cá nhân phụ trách thể hiện sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm miễn là không đi ngược lại với chủ trương chung, không cá nhân vụ lợi. Trong quá trình giao cá nhân phụ trách, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, “luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”44.

Như vậy, tập thể lãnh đạo phải thể hiện ở 3 khâu, bàn bạc tập thể để đưa ra quyết định, lựa chọn cá nhân để giao phụ trách, kiểm tra giám sát quá trình thực thi nhiệm vụ của cá nhân phụ trách. Làm tốt công tác tập thể lãnh đạo ở 3 khâu trên sẽ giúp cá nhân phụ trách công việc được giao hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Cá nhân phụ trách tốt, năng động, sáng tạo “gan góc, kiên quyết, không sợ khó khăn”45 thực hiện thành công nhiệm vụ được giao sẽ chứng minh tính đúng đắn của những quyết định tập thể, qua đó củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng.

4. Kết luận

Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc quan trọng để xây dựng Đảng vững mạnh trên tất cả các mặt, từ tư tưởng, chính trị đến tổ chức và đạo đức, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng. Thực hiện tốt nguyên tắc này góp phần củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng. Ngược lại, nếu hiểu không đúng, thực hiện không nghiêm sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, đe dọa đến vai trò lãnh đạo và sự tồn vong của Đảng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi tình hình thế giới có nhiều biến động khôn lường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Lãnh đạo không tập thể … Phụ trách không do cá nhân…Kết quả cũng là hỏng việc”46. Do đó, cần phải nắm vững và vận dụng một cách linh hoạt mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.

Chú thích:
1, 2, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 403, 612, 438.
4, 13, 14, 15. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 314, 314, 313, 314.
6, 36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012). Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 22, 22 – 23.
3, 5, 9, 10, 11, 12, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 26, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45, 46.  Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 490, 621, 619, 283, 283, 619, 619, 619-620, 309, 313, 280, 620, 619, 620, 620, 620, 620, 620, 620, 620, 620, 620, 620, 284, 298, 636, 315, 320, 320, 320, 290, 315, 620.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 205.
16. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập (1995). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 9 – 10. 
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002).  Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 21. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 781.
27. Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo, https://www.xaydungdang.org.vn/Uploads/Data/2008/9/20.pdf.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021).  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/09/18/tiep-tuc-doi-moi-manh-me-phuong-thuc-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-yeu-cau-cap-bach-cua-giai-doan-cach-mang-moi.
4. Đoàn kết trong Đảng – biểu hiện sâu sắc nhất của đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/06/17/doan-ket-trong-dang-bieu-hien-sau-sac-nhat-cua-dai-doan-ket-dan-toc-trong-boi-canh-hien-nay.

TS. Đỗ Minh Tứ
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

1. Đặt vấn đề Để xây dựng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”1, “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”2, theo Hồ Chí Minh phải “giữ đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách…”3 bởi vì nó là “nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng…”4. Người yêu cầu: “những người cán bộ phải thực hành cho kỳ đúng cái chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”5. Tuy nhiên, “Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân

Gửi bình luận của bạn