Tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh là bộ phận cơ bản cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, là linh hồn, giá trị bao trùm các quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có việc xây dựng, hoàn thiện lý luận về đổi mới của Đảng ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới với việc xây dựng, hoàn thiện lý luận về đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới với việc xây dựng, hoàn thiện lý luận về đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Tư tưởng về đổi mới, công cuộc đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đổi mới là cái vốn có của mọi vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội cũng như trong tư duy. Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: “Mọi vật không bao giờ ngừng lại, mà luôn luôn vận động, biến hóa, đổi mới, phát triển. Luôn luôn có cái đang sinh nở và phát triển; có cái đang suy đồi và chết đi”[1].

Trong xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đổi mới là bản chất của cách mạng, của sự phát triển; là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt. “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt2..

Lắng nghe lời Bác dạy (Tranh: Tư liệu)

          Công cuộc đổi mới là vấn đề chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; nó bao quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của quá trình đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đó là công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”3.

Người khẳng định mục tiêu của công cuộc đổi mới là vì nước vì dân, ích nước, lợi nhà: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”4. Làm thế nào để thực hiện được mục tiêu đó, bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”5.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi mới ra đời cho đến nay, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam. Đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Luận cương chính trị của Đảng đã chủ trương: Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”6. Vào những năm 90 của thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn. Song, ở nước ta chủ nghĩa xã hội vẫn đứng vững, bởi từ Đại hội VI, năm 1986 Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại, đối phó thắng lợi với mọi thử thách, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”7. Muốn sự nghiệp đổi mới thành công thì “Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”8. Đại hội VII của Đảng, tháng 6-1991 tổng kết 5 năm đổi mới 1986-1990, khẳng định đường lối đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn và phù hợp với Việt Nam. Thành công lớn của Đại hội VII là đã đề ra: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 1990-2000. Đại hội khẳng định: ”Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”9. Từ Đại hội VI đến Đại hội VII, những quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được hình thành trên những nét chủ yếu nhất. Cùng với thành tựu cơ bản đó việc khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đánh dấu một bước tiến mới về đổi mới tư duy lý luận của Đảng. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tháng 1/2011 trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"10.

Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà Đảng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, song vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới, đồng chí Nguyễn Phú Trọng -Tổng Bí thư  Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ra nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội. “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”11. Đó là quan niệm mới nhất, đầy đủ nhất của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội theo quan niệm đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới là nhân dân. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo truyền thống dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị hàng đầu trong truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi thách thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để phát triển. Hồ Chí Minh đã chú ý phát huy vai trò, sức mạnh nhân dân trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Những nhà yêu nước vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta từng khẳng định: Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước12. Dân như nước. Chở thuyền hay lật thuyền cũng là dân13. Đến Hồ Chí Minh tinh thần yêu nước, trọng dân trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới bởi sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, sản xuất và sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần của xã hội, là lực lượng và động lực cơ bản của các cuộc cách mạng.

          Trong quá trình lãnh đạo cách mạng lật đổ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh khẳng định rõ vai trò và sức mạnh có tính quyết định của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác - Lênin"14.

          Đảng dựa vào nhân dân thì việc gì, dù khó đến đâu cũng có thể làm được. Đảng đoàn kết được toàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng thì sức mạnh của nhân dân trở thành vô dịch. Hồ Chí Minh khẳng dịnh: " Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"15 và "Chúng ta phải tin tưởng rằng sức mạnh của nhân dân đoàn kết đấu tranh là một sức mạnh tất thắng, một sức mạnh vô địch"16.

          Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ. "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ"17. ‘‘Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân“18.

          Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ bị chế độ phong

kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.  Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”19.

Kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của đổi mới là nhân dân, cách mạng, sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, tại Đại hội XIII, Đảng ta chỉ rõ để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân20.

          Đảng ta chủ trương phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hoá, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi.Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội. Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ, xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới.       Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của cựu chiến binh, cán bộ công an hưu trí trong xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại. Để thực hiện được những mục tiêu nói trên,cần tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

          Nhằm Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, Đảng ta khẳng định rõ cần: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"21.

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ công cuộc đổi mới phải bắt đầu từ Đảng. Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới nên phải tự đổi mới và chỉnh đốn để vững mạnh cả chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng tự đổi mới để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, hoàn thiện đường lối đổi mới, lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai cống hiến lớn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước hết là Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai là Người xây dựng Đảng vững mạnh. Sự nghiệp của Hồ Chí Minh đối với Đảng Cộng sản Việt Nam để lại những giá trị lớn về lý luận và thực tiễn.

Về giá trị lý luận, Trước hết, Hồ Chí Minh đã bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật hình thành Đảng. Theo học thuyết Mác Lênin thì Đảng Cộng sản ra đời bởi sự kết hợp 2 yếu tố là chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Điều này phù hợp với hoàn cảnh các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân lớn mạnh. Còn nước ta là một nước thuộc địa và phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, số lượng công nhân ít. Hồ Chí Minh sáng lập Đảng và tổng kết nêu rõ quy luật ra đời Đảng cộng sản ở các nước như Việt Nam gồm ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”22.

Hồ Chí Minh thấu hiểu hoàn cảnh Việt Nam, nơi chế độ phong kiến chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm và gần trăm năm của chế độ thực dân chuyên chế, con người mang tư duy tiểu nông của một nước nông nghiệp lạc hậu. Người đã sớm  cảnh báo những nguy cơ của một Đảng cầm quyền. Người đã chỉ ra hàng loạt căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra. Do đó cần phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh. Để giữ vai trò lãnh đạo của một Đảng cầm quyền, Đảng phải chống được những nguy cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo. Đó là chống được nguy cơ sai lầm về đường lối. Chống được sự thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ Đảng viên, để thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là tấm gương tiêu biểu trong xã hội về đạo đức và văn minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng Đảng theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lênin như: nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, kỷ luật nghiêm minh tự giác và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người đã nêu rõ công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Xuất phát từ điều kiện cụ thể Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh một số nguyên tắc cơ bản như thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng; Người chú trọng vấn đề tự phê bình và phê bình. Đặc biệt là Hồ Chí Minh rất quan tâm tới công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Coi đó là vấn đề có ý nghĩa quyết định chất lượng và sức sống, sức chiến đấu của Đảng ta. Những vấn đề đó chính là sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác xây dựng Đảng Cộng sản, đặc biệt là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cộng sản cầm quyền. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân,. “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”23.

Điều đặc biệt là Hồ Chí Minh, trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đồng thời Người có sự bổ sung sáng tạo  trong xác định bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện một nước có giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ. Ở đây “quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”24. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản đã thể hiện được sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân với tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong đường lối xây dựng Đảng. Sau khi Hồ Chí Minh đi xa,  đặc biệt trong công cuộc đổi mới, Đảng ta từng bước trở lại quan điểm đích thực của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng để hoàn thiện lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã nêu ra một cách toàn diện những nhiệm vụ cơ bản trong xây dựng chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam.

        Một là: Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Hai là: Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ba là: Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu, rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Bốn là: Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Năm là: Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên. Sáu là: Tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu.

Bảy là: Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tám là: Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Chín là: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Mười là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng  trong điều kiện mới.

Thực hiện tốt 10 nhiệm vụ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất định khơi dậy được khát vọng phát triển  đất nước của toàn Đảng, toàn dân, phát huy được ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về giá trị thực tiễn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng đã góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng khi Người còn sống cũng như khi đã đi xa. Hơn 55 năm qua sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, Đảng ta đã từng bước đổi mới, tự chỉnh đốn về tất cả các mặt và đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Từ Đại hội X. Đảng ta khẳng định nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đến Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định sứ mệnh của Đảng hiện nay và trong thời gian tới là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu  đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa“25.

4. Chủ tịch Hồ Chí Minh là mẫu mực tuyệt vời về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để hoạch định đường lối, chính sách, phát triển lý luận cách mạng; Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, hoàn thiện  lý luận đổi mới, đất nước ta đạt được những thành tựu lớn có ý nghĩa lịch sử.

Hồ Chí Minh - Tấm gương lớn và mẫu mực về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đề ra đường lối, chính sách phù hợp quy luật phát triển chung của thế giới và quy luật phát triển của xã hội Việt Nam

Từ tổng kết thực tiễn sự thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam chống Pháp những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Nguyễn Tất Thành đã phát hiện ra một trong những nguyên nhân của những thất bại đó là thiếu một lý luận đúng đắn dẫn đường. Do đó Nguyễn Tất Thành quyết tâm đi tìm cho cách mạng Việt Nam một đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã dấn thân vào thực tiễn đầy gian lao và nguy hiểm - Đi tìm đường cứu nước, cứu dân.

Trải qua những năm tháng đầy gian truân ở các nước Âu, Á, Mỹ, Phi, làm rất nhiều nghề để sống, đặc biệt là đã phân tích, tổng kết thực tiễn các cuộc cách mạng ở Pháp, Anh, Mỹ, Nguyễn Ái Quốc đi tới khẳng định: Các cuộc cách mạng tư sản  Anh Pháp, Mỹ là không triệt để, chỉ có cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng 10 Nga là đã mở ra con đường giải phóng cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. “ Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”26.

Từ 1911 suốt cuộc hành trình gần 10 năm, vừa dày công nghiên cứu các học thuyết, chủ nghĩa khác nhau, vừa làm việc kiếm sống và tham gia các hoạt động xã hội, năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc bằng cách mạng vô sản. Đây là bước nhảy vọt trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc từ lập trường yêu nước chân chính sang lập trường cách mạng vô sản.

Trở thành người cộng sản, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng cách mạng, có đóng góp to lớn vào lý luận Mác - Lênin. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là tư tưởng đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “ Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn27

Hồ Chí Minh đã nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, thâu thái những tinh hoa tư tưởng của dân tộc và nhân loại để hình thành nên hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Điểm đặc sắc ở Hồ Chí Minh là Người không những là nhà tư tưởng lớn, mà còn là nhà hoạt động thực tiễn, nhà tổ chức vĩ đại. Hồ Chí Minh đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và hoạch định một đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, cùng Đảng lãnh đạo cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lật đổ chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm và đập tan chế độ thực dân đã tồn tại trên đất nước ta gần 100 năm, mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thời đại Hồ Chí Minh, thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người đã sáng lập ra nhà nước pháp quyền kiểu mới của dân, do dân và vì dân trên đất nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Người đã lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đề ra đường lối hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, để tiến tới thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Với Hồ Chí Minh, không chỉ nghiên cứu và dừng lại ở tổng kết, hình thành nên lý luận cách mạng, mà phải biến lý luận đó thành những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đúng đắn, có hiệu quả cao. Trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp, (Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. Người đã khởi xướng xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo thực hiện quyền lực của nhân dân, bảo vệ dân chủ, nhân quyền và đạo đức mới.

          Sống, hoạt động và đi qua gần 30 quốc gia, vượt qua muôn vàn gian khổ, làm rất nhiều nghề để kiếm sống, với quyết tâm cháy bỏng giành tự do cho đồng bào mình, độc lập cho Tổ quốc mình; với khối tri thức lý luận khổng lồ, nhất là lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành nhà tư tưởng lớn, đã hoạch định đường lối, chính sách cho Đảng, Nhà nước phù hợp với quy luật phát triển cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong suốt sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh gắn chặt việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với việc đề ra đường lối, chính sách và phát triển lý luận cách mạng. Đó chính là cơ sở để Đảng ta tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến xây dựng thành công CNXH.

Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, 94 năm qua, trong từng giai đoạn lịch sử, Đảng ta đã đều quan tâm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đề ra đường lối, chính sách phù hợp với yêu cầu cách mạng. Sau hơn 38 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay“28.

Hiện nay, Đảng ta khẳng định rõ mục đích, nhiệm vụ của việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận là “làm rõ, bổ sung và hoàn thiện nền tảng tư tưởng của Đảng; cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới’’29. Từ đó, nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, Thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn để phục vụ công tác xây dựng Đảng và sự nghiệp phát triển đất nước; tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, hoạch định đường lối, chính sách.
           Trước hết, về chủ nghĩa Mác - Lênin, cần nghiên cứu những vấn đề chung, những giá trị bền vững và những vấn đề bổ sung, phát triển. Thứ hai, về tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nghiên cứu Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tư tưởng triết học Hồ Chí Minh; tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội và quản lý xã hội; tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và phát triển kinh tế; tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và con người; những dự báo thiên tài của Hồ Chí Minh. Thứ ba, về chủ nghĩa xã hội nên nghiên cứu chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; chủ nghĩa xã hội dân chủ Bắc Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam; chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, những bài học kinh nghiệm về phòng chống suy thoái và “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu”, bạo loạn, lật đổ. Thứ tư, cần nghiên cứu những vấn đề cơ bản, cập nhật về chủ nghĩa tư bản hiện đại, những bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam. Thứ năm, nghiên cứu các học thuyết, lý thuyết mới, tư duy phát triển mới và những vấn đề thực tiễn mới trong thời đại ngày nay dựa trên quan điểm, nguyên lý, dự báo của chủ nghĩa Mác - Lênin, để làm cho những giá trị của học thuyết này ngày càng sinh động, sâu sắc. Thứ sáu cần nghiên cứu luận cứ khoa học phục vụ công tác tham mưu, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
        Trong thời gian tới, nhiệm vụ rất lớn và quan trọng đối với công tác lý luận là tổng kết 40 năm đổi mới, 50 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước để hoàn thiện cơ bản hệ thống lý luận về đường lối đổi mới; tổng kết 40 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, trong đó có 20 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), tổng kết 100 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và phát triển để có thể bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; bổ sung, làm phong phú và tiến thêm một bước để hoàn thiện hơn nền tảng tư tưởng của Đảng; nghiên cứu xây dựng hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam khi nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

*      *

    *

                                                      KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt gần một thế kỷ qua. Cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có tư tưởng về đổi mới, sáng tạo mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của quốc gia dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

PGS.TS. NGƯT Nguyễn Thế Thắng



Chú Thích: 

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 560.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 284.

3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.617.

4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 65.

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 496.

6  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 94.

7 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-1491

8 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-1491

9  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 147.

10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.

11 Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Viejt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2022, tr.24.

12 Chủ trương của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (?- 1300) in trong sách của Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam thường thức, Tập1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr 398;

13 Nguyễn Trãi Toàn tập, NXB Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2001, tr 84: Nguyễn Trãi: "Thuyền bị lật mới tin câu nói: "dân như nước".

14 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 672.

15.16 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 453; tr 305.

17 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 434.

18 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 232.

19 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 612.

20 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội,2021, tr. 165-166.

21 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, S.đ.d, tr. 172-173.

22 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 406.

23 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.611-612.

24 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 41.

25 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, S.đ.d, tr.111-112.

26 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 387

27 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 392.

28 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, S.đ.d, tr.104.

29 ttps://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Huong-dan-02-HD-TW-2018-tong-ket-thuc-tien-nghien-cuu-ly-luan-399526.aspx 

 

1. Tư tưởng về đổi mới, công cuộc đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới là cái vốn có của mọi vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội cũng như trong tư duy. Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: “Mọi vật không bao giờ ngừng lại, mà luôn luôn vận động, biến hóa, đổi mới, phát triển. Luôn luôn có cái đang sinh nở và phát triển; có cái đang suy đồi và chết đi”[1]. Trong xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đổi mới là bản chất của cách mạng, của sự phát triển; là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt. “Cách mệnh là phá c&aac

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị

Gửi bình luận của bạn