Hiện nay, để xây dựng và phát huy được cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, một trong những điều kiện căn bản đó là tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh – người rèn luyện và sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ rất sớm đã có những chỉ dẫn quan trọng về vấn đề này. Bài viết phân tích những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng góp phần bảo đảm quyền làm chủ cho Nhân dân, từ đó có những định hướng lý luận trong việc xây dựng và phát huy cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong bối cảnh hiện nay.

Nâng cao năng lực lãnh đạo góp phần bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Nâng cao năng lực lãnh đạo góp phần bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Đặt vấn đề

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn dành cho Đảng một sự quan tâm đặc biệt. Trong Di chúc, Người căn dặn nhiều điều nhưng trước hết là nói về Đảng: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”1. Trong vấn đề xây dựng cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng được xem là một trong những điều kiện căn bản góp phần xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Bài viết tập trung phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng như là một điều kiện trong xây dựng cơ chế bảo đảm cho quyền làm chủ của Nhân dân hiện nay.

2. Năng lực lãnh đạo của Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong từ điển tiếng Việt của GS. Hoàng Phê làm chủ biên, định nghĩa năng lực là: “Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao”. Và lãnh đạo nghĩa là: “đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức thực hiện”. Năng lực lãnh đạo là khả năng đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức thực hiện một hoạt động, một chương trình, kế hoạch nào đó với chất lượng cao.

Trong bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập của nhà xuất bản Chính trị quốc gia, cụm từ “năng lực lãnh đạo của Đảng” được nhắc đến bốn lần trong điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Mặc dù không có một định nghĩa nào cụ thể, nhưng thông qua các bài nói, bài viết của Người, có thể đưa ra một khái niệm về nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng như: tức là làm cho Đảng của chúng ta ngày càng trưởng thành hơn nữa trong hoạch định đường lối, chiến lược; trong việc đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh; trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, giám sát công việc của Đảng; và tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm, có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới.

Năng lực lãnh đạo của Đảng được thực hiện thông qua các tổ chức Đảng và chính đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, đây không chỉ là vấn đề mang tính bản chất của Đảng mà đối với cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân thì đây được coi là một trong những điều kiện căn bản góp phần bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cách đây 98 năm, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Và Người trả lời rằng, “Trước hết phải có đảng cách mệnh… Ðảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”2. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam với vị trí là người lãnh đạo, có vai trò quyết định đối với những thắng lợi to lớn của các mạng Việt Nam. Vị trí và vai trò lãnh đạo đó được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân, Đảng phải tranh đấu vì lợi ích của dân tộc và được quần chúng thừa nhận.

Để làm được như vậy, Hồ Chí Minh đặt vấn đề cần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong tư tưởng Người được tập trung ở mấy vấn đề lớn như sau:

(1Nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức và trí tuệ của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”3. Người luôn coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Một đảng đạo đức tức là mục đích hoạt động của Đảng làm cho dân tộc độc lập, dân có quyền tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự. Mọi cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng đều chỉ có một mục đích duy nhất là lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân. Đảng là đạo đức là cơ sở, nền tảng của một Đảng văn minh hay “một Đảng cách mạng chân chính”. Một Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc.

Như vậy, văn minh không chỉ là đạo đức mà phải bao hàm cả trí tuệ. Trí tuệ của Đảng là kết tinh của cả tập thể trong việc hoạch định đường lối, chiến lược; trong việc đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh; trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, giám sát công việc của Đảng; trong tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm và có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới của dân tộc và thời đại. Trong đó mẫu số chung của những quyết định trên là lợi ích quốc gia, dân tộc và bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Vì vậy, để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng ở mỗi thời kỳ khác nhau, Đảng phải không ngừng rèn luyện cả về phẩm chất đạo đức và năng lực tư duy, trí tuệ. Chỉ có như vậy, Đảng mới không bị tụt hậu, mới làm tròn được trách nhiệm của mình trước Nhân dân và đất nước, xứng đáng là “Người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của Nhân dân”4.

(2Đảng cần đổi mới phương thức lãnh đạo mà trước hết cần phải có Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn.

“Phải có đường lối cách mạng đúng, có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc”5. Đảng phải thật sự là đội tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đường lối đó phải đáp ứng được quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của Nhân dân”6. Chỉ khi cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đúng đắn mới làm cho phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân trở nên tự giác. Ngược lại, những sai lầm trong xây dựng cương lĩnh, đường lối chính trị phải trả giá bằng vận mệnh của Tổ quốc và sinh mệnh của hàng triệu đảng viên và quần chúng nhân dân.

Đổi mới phương thức lãnh đạo trong việc đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh, phù hợp với từng đối tượng: “Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng căn cứ vào tình hình trong nước và trên thế giới, đề ra những khẩu hiệu, mục đích và kế hoạch đấu tranh. Đảng quy định ở giai đoạn nào thì phải dựa vào lực lượng nào, đoàn kết lực lượng nào, cô lập và phân hóa lực lượng nào, để tiêu diệt kẻ thù của giai cấp, của Nhân dân”7.

Bên cạnh đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua đổi mới cách thức hoạt động của Đảng trong mối quan hệ với Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, lãnh đạo đúng không thể ngồi trong phòng viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Mà lãnh đạo đúng tức là “(1) Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. (2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong. (3) Phải tổ chức sự kiểm soát mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”8. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng phải từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng. Lãnh đạo không chỉ thực hiện từ trên xuống mà còn từ dưới lên, cần phải có sự gắn bó giữa Đảng và Nhân dân, mọi sự lơ lửng giữa trời nhất định thất bại.

(3) Đổi mới phong cách làm việc, mở rộng dân chủ trong Đảng, đồng thời giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng phải mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức, phải giữ gìn truyền thống đoàn kết nhất trí trong Đảng, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình. Đồng thời, Đảng phải là tấm gương thực hành dân chủ để cán bộ có gan nói, đề xuất ý kiến, giám phụ trách, giám làm việc, dân chủ trong tập trung, tập trung trong dân chủ. Cán bộ lãnh đạo cần lắng nghe ý kiến của cấp dưới, cả những ý kiến trái với quan điểm của mình. Nói thật, nói thẳng, thảo luận thật dân chủ để tìm ra chân lý. Người viết: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ, thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật”9, “muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”10; trong Đảng “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”11. Mặt khác, mỗi đảng viên bất cứ ở địa vị nào cũng phải làm gương dân chủ, nghiêm túc trong tự phê bình và phê bình.

(4) Tăng cường công tác xây dựng Đảng gắn với rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Để đáp ứng những yêu cầu và nhiệm vụ thay đổi liên tục trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cần phải xây dựng và chỉnh đốn Đảng: Trong Di chúc, Người khẳng định: “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”12. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, công tác xây dựng Đảng cần được chú trọng từ chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, cán bộ và công tác cán bộ. Đồng thời, phải dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò của Nhân dân đối với quá trình xây dựng Đảng.

Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cũng cần nghiêm túc tự phê bình và phê bình, tự soi tự sửa, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời, coi thường quần chúng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao phó. Để mỗi mỗi cán bộ đảng viên xứng đáng là các chiến sĩ cách mạng, Đảng phải tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đường lối quan điểm chính sách của Đảng, khuyến khích Nhân dân thật thà phê bình cán bộ.

(5) Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.

Đề cập đến vai trò của các chi bộ đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Tổ chức gốc rễ của Đảng là chi bộ”, “các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh. Các chi ủy vững tức là chi bộ mạnh”. Trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc xây dựng chi bộ “bốn tốt” bao gồm: chi bộ tốt là phải có “đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết”; chi bộ tốt là phải “chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu”; chi bộ tốt là phải “một lòng một dạ phục vụ Nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân”; chi bộ tốt là “đối với Đảng thì củng cố tốt và phát triển tốt”13. Để có chi bộ tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương chi bộ phải thường xuyên củng cố, kiện toàn cấp ủy và phát triển đảng viên trong tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời, duy trì chế độ sinh hoạt chi bộ nghiêm túc.

Mỗi chi bộ đảng cần quan tâm làm tốt công tác vận động quần chúng nhân dân, gắn bó mật thiết với đời sống của Nhân dân. Mỗi chi bộ, mỗi đảng viên phải làm tốt công tác giáo dục và thuyết phục. Nắm bắt đời sống, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng. Động viên quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp ý kiến phê bình hoạt động của chi bộ, kiểm tra tư cách đảng viên, kịp thời phát hiện những người không đủ tư cách và giới thiệu những quần chúng ưu tú để kết nạp vào Đảng.

(6) Tăng cường sự đoàn kết nhất trí ở trong Đảng.

Đoàn kết nhất trí là truyền thống rất quý báu của Đảng ta. Thực tiễn đã chứng minh, ở những bước ngoặt phức tạp của lịch sử, Đảng luôn giữ vững khối đoàn kết thống nhất. Chính vì vậy, Đảng mới lãnh đạo và đoàn kết được toàn thể nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”14. Sự đoàn kết nhất trí trong Đảng là cơ sở quan trọng góp phần củng cố sự thống nhất, tạo nên những thắng lợi to lớn của Đảng và dân tộc ta. Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, nhất thiết phải song hành với quá trình gìn giữ và phát huy sự đoàn kết và thống nhất ở trong Đảng.

(7) Tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.

Vậy sao phải kiểm tra? Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đây là một trong ba khâu vô cùng quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng: từ quyết định đúng, tổ chức thi hành đúng và tiến hành kiểm soát. Lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát thì không nắm bắt được năng lực cũng như ưu, khuyết điểm của cán bộ đảng viên, không huy động được tính tích cực của công dân. Kiểm tra, giám sát mới phát hiện những hạn chế, khuyết điểm của cán bộ, của đường lối, cương lĩnh, nghị quyết từ đó có những điều chỉnh kịp thời nhằm đem lại hiệu quả trong công việc, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cách thức tiến hành kiểm tra, trước hết phải huy động sức mạnh của Nhân dân, vì: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy, sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại”15thứ hai, công tác kiểm tra phải được tiến hành có hệ thống, tiến hành thường xuyên, liên tục, có kế hoạch tỉ mỉ, chi tiết; thứ ba, kiểm tra trên tinh thần phê và tự phê, có sự đoàn kết và yêu thương nhau; thứ tư thực hiện kiểm tra từ trên xuống và từ dưới lên. Nghĩa là người lãnh đạo kiểm tra công tác quản lý từ trên xuống. Nhân dân, cán bộ cấp dưới sẽ kiểm soát từ dưới lên đối với các lãnh đạo quản lý cấp trên; cuối cùng, kiểm tra phải đi đôi với kỷ luật Đảng, vì: “Không có kỷ luật sắt không có Đảng. Đã vào Đảng thì phải theo tư tưởng của Đảng. Đảng đã chỉ thị, nghị quyết là phải làm. Không làm thì đuổi ra ngoài Đảng”16 trên tinh thần công minh, chính xác, kịp thời, bảo đảm dân chủ nhằm ngăn chặn và đẩy lùi những thói hư, tật xấu, những cán bộ tha hóa ra khỏi Đảng.

Như vậy, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những chỉ dẫn vô cùng quan trọng trong vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; trong đó nhấn mạnh việc làm cho Đảng trưởng thành hơn trở thành một Đảng là đạo đức, là văn minh, tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo, thực hành dân chủ, xây dựng mối quan hệ mật thiết với Nhân dân. Đồng thời, tăng cường kỷ luật, kiểm tra, giám sát, tổng kết kinh nghiệm. Những quan điểm này vẫn đang được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và quán triệt một cách sâu sắc và được phản ánh bằng kết quả trên thực tế nhiều năm trở lại đây.

3Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng góp phần phát huy cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Hiện nay, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là một trong những nội dung được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Văn kiện Đại hội XIII xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”17. Đại hội XIII không chỉ dừng lại ở năng lực lãnh đạo mà yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền, không chỉ là xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh mà đặt ra yêu cầu này đối với cả hệ thống chính trị. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”18

Trên thực tế, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng là nhân tố quyết định đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua, tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử đối với sự phát triển của đất nước. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định con đường độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội, kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Trước những biến động căng thẳng trong khu vực và trên thế giới, Đảng đã bình tĩnh, kiên định và kịp thời đưa ra nhiều định hướng chính trị đúng đắn, chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, tạo nên sự đoàn kết trong Đảng và nhận được sự đồng thuận của Nhân dân.

Đảng ta luôn giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đồng thời tiến hành đổi mới phương thức lãnh đạo, mở rộng dân chủ trong Đảng. Đẩy mạnh quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng trên tất cả các mặt từ chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ và công tác cán bộ, xử lý nghiêm và có sức răn đe đối với những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất góp phần nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Hoạch định và thực hiện chiến lược trong công tác cán bộ, ngăn chặn sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng, cải tiến trong phương thức lãnh đạo và phong cách công tác của Đảng. Đặc biệt, trong nhiều năm trở lại đây Đảng lãnh đạo nhà nước tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các chủ trương và giải pháp góp phần xây dựng Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bổ sung và đưa vào thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ tại cơ sở, kiện toàn hệ thống chính trị, cải cách tiền lương, chính sách xã hội nhằm bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân.

Tuy nhiên, quá trình lãnh đạo của Đảng vẫn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức Đảng còn thấp. Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên nhiều nơi còn thiếu chặt chẽ, sinh hoạt Đảng chưa đi vào thực chất, tính chiến đấu tinh thần tự phê bình và phê bình còn thấp. Công tác xây dựng và phát triển Đảng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên tự diễn biến, tự chuyển hóa, phai nhạt tư tưởng đạo đức lối sống. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng còn chưa nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức. Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng trong các cơ quan đơn vị còn yếu. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới.

 Trong vấn đề xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế, Đại hội XIII nhận định: “Quyền làm chủ của Nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ. Việc chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm, kỷ cương, phép nước còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”19. Do đó, cần phải quay trở lại với những quan điểm của Hồ Chí Minh về nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng góp phần bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân để có những chỉ dẫn lý luận cần thiết góp phần xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân ở nước ta hiện nay. Cụ thể là:

 – Khẳng định quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, đặc biệt đối với vấn đề phát huy quyền làm chủ và cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong bối cảnh hiện nay.

– Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là tất yếu khách quan trong quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Bởi Đảng là tổ chức chính trị duy nhất, có quyền lãnh đạo đối với toàn thể dân tộc. Trí tuệ và đạo đức, bản lĩnh chính trị của Đảng là nhân tố quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XXI, là nhân tố bảo đảm cho việc hoàn thiện và phát huy cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Trong đó, Đảng với tư cách là nhân tố bảo đảm về mặt chính trị, pháp lý cho Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cần học tập và làm theo những chỉ dẫn quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là đạo đức, là văn minh. Trong đó, Đảng phải không ngừng rèn luyện cả về phẩm chất đạo đức và năng lực tư duy, trí tuệ. Thước đo năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong bối cảnh hiện nay đó là sự ổn định về chính trị, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và quyền làm chủ thực sự cho Nhân dân.

– Nâng cao năng lực lãnh đạo trong công tác dự báo và xây dựng các định hướng, tầm nhìn và chiến lược, như: cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội… trong đó cần đặc biệt quan tâm đến chiến lược trong xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân từ cơ chế bầu cử, cơ chế ủy quyền tới cơ chế kiểm tra, giám sát, cơ chế bãi miễn trên nền tảng quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn bối cảnh đất nước. Đồng thời, các chủ trương, chính sách về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân cũng cần tính đến sự phù hợp ở từng đối tượng khác nhau trong xã hội.

– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cần quay về với chỉ dẫn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới cách thức hoạt động của Đảng trong mối quan hệ với Nhân dân không mệnh lệnh, hành chính mà đi sâu vào trong đời sống của Nhân dân, tìm hiểu, nắm bắt tâm tư nguyện vọng để tổ chức, chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là hệ thống trình tự, thủ tục quy định và bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân theo đúng phương châm Nghị quyết Đại hội XIII là: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tức là, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền bằng phương pháp dân chủ, bằng việc phát huy và bảo đảm quyền làm chủ của người dân.

– Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng thông qua việc tăng cường phát hiện, bồi dưỡng và rèn luyện đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Bên cạnh những yêu cầu của thực tiễn đất nước, cần tiếp tục kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc khéo léo, lựa chọn cán bộ, trong việc phối hợp sử dụng cán bộ, bảo đảm năng lực và phẩm chất đạo đức, tư cách của người “đầy tớ” phục vụ Nhân dân. Kiên quyết trong chỉ đạo và xử lý nghiêm minh những cán bộ thoái hóa, biến chất lạm dụng chức vụ quyền hạn, suy thoái về tư tưởng đạo đức lối sống, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, xử lý nghiêm minh nhưng không vì “công quên lỗi vì lỗi quên công”. Bảo đảm tính nhân văn, nhân đạo của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

 Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: (1)Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị,kiên định và không ngừng học tập và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Trong đó cốt lõi là mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định với đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đồng thời, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. (2) Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tư tưởng, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập tư tưởng, chủ động kịp thời và hiệu quả. Học tập và làm theo những chỉ dẫn quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đề cao tính linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời, đẩy mạnh cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, đặc biệt trên không gian mạng góp phần tạo dựng lòng tin và tạo sự đồng thuận trong Nhân dân; (3) Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, ngăn chặn đẩy lùi những biểu hiện thoái hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ đảng viên, tiếp tục cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. (4) Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh theo tinh thần mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh. Các chi ủy vững tức là chi bộ mạnh”, phải thường xuyên củng cố, kiện toàn cấp ủy và phát triển đảng viên trong tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời, duy trì chế độ sinh hoạt chi bộ nghiêm túc.

– Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng thông qua công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát trong Đảng một cách chặt chẽ, có trình tự, thủ tục và bước đi phù hợp. Đồng thời, tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, tiến hành kiểm tra từ trên xuống, từ dưới lên, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên và hệ thống tổ chức Đảng. Tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm, từ đó có sự điều chỉnh kịp thời, nhanh chóng góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng.

3. Kết luận

Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm và đề cao việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ Nhân dân. Để thực hiện được, đòi hỏi các điều kiện, trong đó nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là điều kiện hết sức quan trọng góp phần bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những chỉ dẫn vô cùng quý báu, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Đây là những tài sản lý luận để Đảng và Nhân dân ta tiếp tục học tập trong quá trình hoàn thiện và phát huy cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

Chú thích:
1, 4, 12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 622, 622, 616.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 289.
3, 11. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 403, 544.
5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 608.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 164
7, 9, 13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 277, 287, 286.
8, 15. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 325, 326.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 386
14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 367

17, 18, 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 111, 118, 88-89.

ThS. Kiều Thị Yến
Học viện Ngân hàng

1. Đặt vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn dành cho Đảng một sự quan tâm đặc biệt. Trong Di chúc, Người căn dặn nhiều điều nhưng trước hết là nói về Đảng: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”1. Trong vấn đề xây dựng cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng được xem là một trong những điều kiện căn bản góp phần xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Bài viết tập trung phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng như là một điều kiện tr

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân

Gửi bình luận của bạn