Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc, người đầu tiên nói và trực tiếp chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng đổi mới nổi bật của Người về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là sự kết hợp tài tình giữa lý luận Mác - Lênin với truyền thống văn hóa dân tộc và kết tinh những giá trị nhân văn của văn hóa nhân loại. Tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội lại rất phong phú, đa dạng, vì con người, do con người và cho con người, do vậy, nó trở nên gần gũi với cuộc sống của nhân dân Việt Nam, được nhân dân tin tưởng và làm theo. Đây thực sự là tài sản vô giá để Đảng ta kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo mô hình tổng quát chủ nghĩa xã hội Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới.

Tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và giá trị đối với định hình mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay
Tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và giá trị đối với định hình mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay

1. Những nội dung tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Ảnh minh họa

Thứ nhất: Về tư tưởng đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh chưa sử dụng cụm từ “đặc trưng” hay “mô hình CNXH” như cách nói hiện nay[1]. Tuy nhiên, trong trước tác của Người khi nói đến CNXH ở Việt Nam, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã khái quát mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam thông qua các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại,v,v…

Tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình CNXH Việt Nam, có thể hiểu trên hai phương diện: 1) Trên cơ sở kết tinh truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa thế giới, Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về CNXH phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam, với khát vọng công bằng, bác ái của loài người. Do vậy, mô hình CNXH Việt Nam theo tư tưởng đổi mới của Người vừa có những đặc trưng phổ biến theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa có những nét đặc thù, mang bản chất riêng có của Việt Nam. 2) Trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin về CNXH - những vấn đề đầy chất lý luận chính trị, hàn lâm, thông qua ngôn ngữ nói, viết riêng có của mình, Hồ Chí Minh đã làm cho CNXH trở lên dung dị, mộc mạc, gần với cuộc sống của nhân dân Việt Nam, để nhân dân dễ hiểu, tin tưởng và làm theo.

Thứ hai: Những nội dung đổi mới về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Một là, về đặc trưng tổng quát của mô hình CNXH Việt Nam

Khi tiếp cận tổng quát về CNXH với phương diện là một chế độ xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh CNXH bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó, con người được phát triển toàn diện, tự do. Mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người. Với điều kiện cụ thể của Việt Nam, Người nhấn mạnh đến mục tiêu vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”[2], là “làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào được sung sướng”[3], là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do, là “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[4]. Đó cũng chính là “ham muốn tột bậc” của Hồ Chí Minh khi trả lời các nhà báo nước ngoài (1-1946).

Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, CNXH không phải là những gì cao siêu, huyền bí, xa lạ với lợi ích vật chất và tinh thần của con người; ngược lại, nó hết sức cụ thể và thiết thực, phù hợp với quan niệm truyền thống của dân tộc Việt Nam và với xu thế của thời đại hiện nay. Theo Người, bản chất của chủ nghĩa xã hộilàm cho dân giàu, nước mạnh; công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom; là làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. Đó là “một thế giới… không có người bóc lột người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”[5].

Khi tiếp cận CNXH với phương diện là mục tiêu, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Nói một cách đơn giản và dễ hiểu CNXH là “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”[6]. Cụ thể là “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”[7].

Với điều kiện thực tiễn của Việt Nam ở những năm đầu sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, mục tiêu ban đầu của CNXH cần phải đặt ra một cách thiết thực: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn./ Người đủ ăn thì khá giàu./ Người khá giàu thì giàu thêm./ Người nào cũng biết chữ,/ Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”[8]. Đó là một xã hội có sự thống nhất biện chứng của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, có “công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến”, là xã hội do nhân dân làm chủ.

Hồ Chí Minh đã tiếp cận CNXH từ nhiều phương diện khác nhau. Dù theo phương diện nào, CNXH trong quan điểm của Người là một chế độ mới, thực sự ưu việt, đầy tính nhân văn cao cả, khác biệt với tất cả các chế độ xã hội đã có. Người kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có thể cứu vớt loài người, đem lại cho mọi người sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, sự phát triển kinh tế và cuộc sống hạnh phúc[9].

Hai là, về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mô hình CNXH Việt Nam

Về kinh tế: Hồ Chí Minh quan niệm, đó là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học - kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ thuật của nhân loại; là xã hội mà tình trạng bóc lột, bất công theo kiểu chủ nghĩa tư bản được loại dần, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao.

Bàn về chế độ sở hữu trong CNXH, Hồ Chí Minh nhấn mạnh những tư liệu sản xuất lớn (chủ yếu) thuộc về sở hữu chung của toàn dân mà nhà nước đại diện quản lý để phục vụ lợi ích chung của xã hội. Người nói rõ hơn, những tư liệu sản xuất chủ yếu mà nhân dân làm chủ trong CNXH là ruộng đất, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, tài chính, ngân hàng, tài nguyên, các tài sản công của quốc gia (xe lửa, sân bày, kho tang, bến cảng) do Nhà nước đại diện quản lý phải nhằm phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ nhu cầu chung của xã hội. Đây chính là một trong những điểm khác biệt cơ bản thể hiện bản chất của CNXH so với các chế độ đã có trước đây. Nguyên tắc phân phối trong CNXH Việt Nam vẫn theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin là làm theo năng lực, hưởng theo kết quả lao động, có phúc lợi xã hội, nhưng để phù hợp với điều kiện cụ thể Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc phân phối không chỉ công bằng mà còn phải hợp lý.

Luận điểm tổng quát về đặc trưng kinh tế của mô hình CNXH Việt Nam theo Hồ Chí Minh là: “… lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v,v. làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, làm ít thì ăn ít, không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”[10].

Về chính trị: Theo Hồ Chí Minh, CNXH Việt Nam là một chế độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ. Một trong những phương diện thuộc về bản chất của CNXH Việt Nam theo tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh là xác lập và thực hiện quyền làm chủ thật sự của nhân dân, đó là nhân dân lao động là chủ và làm chủ. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - lao động trí óc, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân đoàn kết thành một khối thống nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ XHCN. Trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh, nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cơ cấu quyền lực. CNXH chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.

Luận điểm nổi bật, xuyên suốt của Hồ Chí Minh về đặc trưng chính trị của mô hình CNXH Việt Nam là: “Nước ta là nước dân chủ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra/ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên/ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân[11].

Về văn hóa, con người, xã hội: Hồ Chí Minh quan niệm, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Người nhấn mạnh, bản chất nền văn hóa XHCN Việt Nam mang nội dung xã hội chủ nghĩa và đậm đà bản sắc dân tộc, về xây dựng con người mới, đạo đức mới, lối sống mới xã hội chủ nghĩa, do vậy phải phát huy những vốn cũ quý báu của dân tộc và học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa XHCN Việt Nam là: Dân tộc, khoa học, đại chúng[12]. Người cũng nhắc nhở, phong trào văn hóa phải phát triển cả bề rộng và chiều sâu, vừa đáp ứng mặt giải trí, vừa bảo đảm nâng cao tri thức cho quần chúng và cao hơn là phải làm cho văn hóa gắn liền với lao động sản xuất.

Con người là một trong những đặc trưng thể hiện đậm nét nhất trong tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình CNXH Việt Nam. Người coi đây là đặc trưng cốt lõi của CNXH Việt Nam, là mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam. Trong xây dựng con người XHCN, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết mặt tư tưởng, vì “muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”[13]. Theo Người, tư tưởng XHCN được hình thành từ sự kết tinh của việc học tập, vận dụng, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao tinh thần yêu nước, yêu CNXH. Cùng với tư tưởng XHCN, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến việc xây dựng con người vừa có đức vừa có tài. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đức - tài trong mỗi con người rất biện chứng, gắn bó, thống nhất với nhau.

Đặc trưng xã hội trong tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình CNXH Việt Nam bao gồm hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và trí óc dần được xóa bỏ[14]. Con người trong CNXH được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa giữa phát triển xã hội và phát triển tự nhiên. Các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp nhau cùng tiến bộ.

Về quan hệ quốc tế: Với CNXH Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, có quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác với nhân dân lao động trên thế giới. Ngay những năm đầu sau khi giành được chính quyền Người đã nêu rõ: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”[15]. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định độc lập, chủ quyền, bình đẳng là nền tảng trong mọi quan hệ hợp tác quốc tế. Người chỉ rõ: “Trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước”[16]. Đó là một nguyên lý cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ hoạt động ngoại giao Việt Nam.

Các đặc trưng về mô hình CNXH Việt Nam trong tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng CNXH. Mô hình CNXH Việt Nam theo tinh thần đổi mới của Hồ Chí Minh là sự tổng hợp quyện chặt ngay trong cấu trúc nội tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị… Trong đó những giá trị tạo tiền đề, có giá trị hạt nhân (độc lập, tự do, bác ái, dân chủ, công bằng). Tất cả những giá trị cơ bản này là mục tiêu chủ yếu của CNXH. Một xã hội mới mà ở mỗi cá nhân con người được phát triển đầy đủ, cao nhất và toàn diện.

Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, do điều kiện của Việt Nam có điểm xuất phát thấp, không trải qua chủ nghĩa tư bản, tàn tích phong kiến nặng nề, lại trải qua những năm tháng chiến tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược kéo dài, khốc liệt, cho nên đây là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu dài của nhiều thế hệ và qua nhiều bước, không thể nóng vội. Phải quyết tâm làm cho lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất mới hoàn thiện, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại (phải dồn sức tiến hành công nghiệp hóa), có công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, thường xuyên phải chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, đem văn hóa vào trong lãnh đạo, quản lý, chống quan liêu và tham ô, tham nhũng, chống cả những bệnh chủ quan, duy ý chí, phù phiếm, hình thức, mọi kế hoạch phải cụ thể, mọi biện pháp phải thiết thực, dựa vào tài trí sáng tạo của dân, công sức của dân để phục vụ dân, tôn trọng và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Những tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình CNXH Việt Nam rất thiết thực, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân chủ và quan điểm nhân dân. Đó cũng là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH của Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đây là giá trị to lớn đối với việc định hình mô hình CNXH và định hướng đi lên CNXH ở nước ta hiện nay.

2. Giá trị tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình chủ nghĩa xã hội đối với “định hình” chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới

Lắng nghe lời Bác dạy (Tranh: Tư liệu)

Thứ nhất: Từng bước “định hình” tổng quát mô hình CNXH Việt Nam

Trong thời kỳ đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta đã có những đổi mới căn bản, năng động và phát triển theo tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình CNXH, phù hợp với bối cảnh thực tiễn đất nước, xu thế phát triển của thời đại và đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”.

Trong những năm đổi mới, một trong những câu hỏi lớn đặt ra đối với lý luận của Đảng ta là: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng gồm những đặc trưng nào? Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhất là tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về CNXH; nghiên cứu xu thế phát triển của thời đại và nhất là từ thực tiễn của đổi mới với những thành tựu bước đầu, Cương lĩnh năm 1991 đã xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng gồm sáu đặc trưng[17]. Đây là những nhận thức bước đầu, là căn cứ để Đảng ta định hình tổng quát mô hình CNXH Việt Nam sẽ được xây dựng và cũng là những định hướng để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện từ thực tiễn đổi mới đất nước.

Với quan điểm thực tiễn gắn liền với phát triển, với thái độ và phương pháp khách quan, khoa học, Đảng luôn thấm nhuần tinh thần đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải bắt nguồn từ thực tiễn và hướng tới thực tiễn, do vậy, từ sau Đại hội VII, ở các nhiệm kỳ đại hội tiếp theo, trên cơ sở thực tiễn đổi mới của đất nước, Đảng ta từng bước có những bổ sung quan trọng, phát triển mới về lý luận mô hình CNXH. Tại Đại hội XI (2011) xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng được bổ sung, phát triển gồm: “Dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo,có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới[18].

Với 8 đặc trưng nêu trên, những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội Việt Nam thể hiện trước hết ở đặc trưng tổng quát: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đặc trưng này có vị trí chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của CNXH Việt Nam, phản ánh được những giá trị cốt lõi trong tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về CNXH là làm sao cho dân giàu, nước mạnh..., là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc... Với 8 đặc trưng này, chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã là một hệ thống chỉnh thể bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng có quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau - thể hiện các mối quan hệ hợp quy luật giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế với chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội, kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối ngoại, giữa nội lực và ngoại lực, giữa mục đích và phương tiện, trong đó mục đích cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, bất công, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, thể hiện phẩm giá của mình.

Thứ hai: Xác định các đặc trưng cụ thể của mô hình CNXH Việt Nam

Hệ thống chỉnh thể của chủ nghĩa xã hội Việt Nam (ngoài đặc trưng tổng quát) được thiết kế trên các trụ cột chính: Kinh tế là nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giữ vị trí là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, là nền kinh tế luôn gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Chính trị gồm: Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của chế độ XHCN; Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Văn hóa, con người, xã hội là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; văn hóa vừa thể hiện bản sắc dân tộc vừa có tính khoa học, hiện đại, phục vụ đại đa số nhân dân; con người được giải phóng và có điều kiện phát triển toàn diện. Về quan hệ giữa các dân tộc trong nước (đối nội) được thực hiện theo các nguyên tắc: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ và quan hệ với nhân dân thế giới (đối ngoại) thực hiện theo nguyên tắc: Hữu nghị và hợp tác…

Hạt nhân của các trụ cột trong CNXH Việt Nam là sự lãnh đạo của Đảng, vai trò chủ thể, vị trí trung tâm là nhân dân. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Có thể nói, 8 đặc trưng nêu trong Cương lĩnh đã định hình mô hình CNXH Việt Nam. Đây là một trong những thành tựu nhận thức lý luận quan trọng của Đảng trên cơ sở tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình CNXH Việt Nam, đồng thời là kết quả của sự tổng kết thực tiễn sáng tạo của nhân dân, thể hiện nguyện vọng, ý chí của cả dân tộc. Những giá trị cốt lõi của mô hình CNXH Việt Nam hiện nay thể hiện tính ưu việt riêng có của Việt Nam, khác hẳn về chất so với các chế độ xã hội áp bức, bóc lột trước đây và cũng có nhiều điểm khác với các mô hình CNXH hiện thực đang được xây dựng trên thế giới hiện nay (CNXH đặc sắc Trung Quốc, mô hình dân chủ nhân dân ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, mô hình CNXH Cuba…), là một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chính đáng của con người, vì con người, do con người, một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây chính tư tưởng đổi mới, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi[19].

Thực tiễn đổi mới những năm qua cũng chứng tỏ phát triển theo mô hình CNXH Việt Nam mà Đảng đã kế thừa, phát triển tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh không chỉ có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội, môi trường tốt hơn nhiều so với các nước đi theo mô hình phát triển khác. Nhờ đó, “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử…”. Đây là sự “kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”[20]./.

PGS. TS Đỗ Thị Thạch

Học viện CTQG Hồ Chí Minh

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQGST, H.2011, t.10 (tr.387, 390); t.5 (tr.289, 81,); t.4 (tr.187); t.12 (tr. 415, 11); t.13 (tr.27, 438, 203); t.1 (tr.496); t.6 (tr.232, 317); t.7 (tr. 40); t.11 (tr. 603).

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, t. 51, tr. 138.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb, CTQG, H.2011, tr. 70.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H.2021, t. I, tr.103 -104.

5. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. CTQGST, H.2022, tr. 21-22.

6. Hội đồng lý luận Trung ương: 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020, tr 49.

8. Lê Hữu Nghĩa: Di sản Hồ Chí Minh mãi mãi soi trường cho chúng ta đi đến tương lai tươi sáng của nhân loại. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế: Di sản Hồ Chí Minh và thời đại ngày nay (Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 5 - 2010).

9. GS.TS Phan Xuân Sơn: Mô hình CNXH Việt Nam trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2022; PGS.TS Nguyễn An Ninh: Mô hình CNXH hiện thực – thực trạng và triển vọng, Nxb. CTQGST, H.2020; GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Mô hình CNXH Việt Nam: Vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, trong cuốn: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương tuyển chọn. Nxb. CTQGST, H. 2021; GS.TS Trần Văn Phòng: Sự phát triển của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong cuốn: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương tuyển chọn. Nxb. CTQGST, H. 2021.

 

Chú thích: 

[1] Tham khảo: GS.TS Phan Xuân Sơn: Mô hình CNXH Việt Nam trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2022; PGS.TS Nguyễn An Ninh: Mô hình CNXH hiện thực – thực trạng và triển vọng, Nxb. CTQGST, H.2020; GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Mô hình CNXH Việt Nam: Vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, trong cuốn: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương tuyển chọn. Nxb. CTQGST, H. 2021; GS.TS Trần Văn Phòng: Sự phát triển của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong cuốn: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương tuyển chọn. Nxb. CTQGST, H. 2021.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H.2011, t.10, tr.387

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H.2011, t.5, tr.289

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H.2011, t.4, tr.187

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t.12, tr. 415, tr.70

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H.2011, t.13, tr.27

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H.2011, t.13, tr.438

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H.2011, t. 5, tr. 81

[9] Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2011, t.1, tr.496

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H.2011, t.10, tr.390

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGST, H.2011, t.6, tr.232

[12] Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGST, H.2011, t.7, tr.40

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H.2011, t.12, tr.11

[14] Tham khảo: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGST, H.2011, t.11, tr.603, t.13, tr.203

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGST, H.2011, t.6, tr.311

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGST, H.2011, t.10, tr.317

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 51, tr. 138

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr 70.

[19] Xem: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. CTQGST, H.2022, tr. 21-22

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 103, tr. 104

 

1. Những nội dung tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam Ảnh minh họa Thứ nhất: Về tư tưởng đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh chưa sử dụng cụm từ “đặc trưng” hay “mô hình CNXH” như cách nói hiện nay[1]. Tuy nhiên, trong trước tác của Người khi nói đến CNXH ở Việt Nam, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã khái quát mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam thông qua các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại,v,v… Tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh về mô hình CNXH Việt Nam, có thể hiểu trên hai phương diện: 1) Trên cơ sở kết tinh truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của d&acirc

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị

Gửi bình luận của bạn