Từ thực tiễn hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi” [1]. Soi chiếu vào suốt quá trình lãnh đạo của Đảng ta, tư tưởng đó vẫn vẹn nguyên giá trị, thực sự yêu cầu cấp thiết trong củng cố, giữ vững mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân hiện nay.

 Giữ chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giữ chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân

Một là, sự cần thiết phải giữ chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Quan hệ giữa Đảng và nhân dân là mối quan hệ bản chất, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Đảng. Nghiên cứu trong Hồ Chí Minh toàn tập, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phát hành năm 2011, cụm từ “nhân dân” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc tới gần sáu nghìn lần, tập trung nhất là vào thời kỳ xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Điều này cho thấy, trong điều kiện hoàn cảnh nào, vấn đề phát huy vai trò, giữ chặt mối quan hệ gắn bó với nhân dân luôn được Người quan tâm đặc biệt và thường xuyên nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu triệt vấn đề đó, coi đây là vấn đề sống còn của một dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi, động viên nông dân tích cực sản xuất. (Ảnh: Tư liệu)

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là nhân tố cực kỳ quan trọng, quyết định sức mạnh của Đảng, bảo đảm cho các phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, phát huy tốt nhất sức mạnh và quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quyết định tính đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước làm nên những thắng lợi to lớn qua mỗi thời kỳ cách mạng. Người khẳng định: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”[2]; “kinh nghiệm trong nước và các nước cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[3].

Tuy nhiên, cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau, với thái độ chính trị và hành động cách mạng của các tầng lớp nhân dân cũng khác nhau. Cho nên, Người chỉ ra rằng cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh vận động và tổ chức dân chúng. Đó chính là cơ sở của sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo và xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Thực tế cho thấy, qua mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm nền tảng cho những chủ trương, đường lối của mình; luôn đồng hành, chia sẻ cùng nhân dân, gần dân, hiểu dân và sẵn sàng phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, nhân dân luôn tin vào Đảng, ủng hộ Đảng, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng đóng góp sức người, sức của, thậm chí cả xương máu, tính mạng của mình cho cách mạng. Đây chính là nguyên nhân tạo thành sức mạnh của Đảng ta, thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân mà Đảng phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đặc biệt là trong việc kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, tập hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.

Hai lànhiệm vụ xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài; là một nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng, là một trong những nội dung quan trọng quyết định sự sống còn của Đảng, bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của hệ thống chính trị, điều kiện tất yếu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ, Đảng ta là một Đảng vì dân, vì nước, “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”[4]. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên, “phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”[5].

Ba là, giải pháp xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Đảng phải là tổ chức vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân chứ không phải sự nghiệp của một cá nhân anh hùng nào, nhưng cách mạng muốn bảo đảm thắng lợi thì phải tập hợp nhân dân thành một khối đoàn kết thống nhất; được tổ chức, lãnh đạo. Chỉ có đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân mới đủ khả nǎng để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Theo Người, “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”[6]. Do vậy, trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng thường xuyên xây dựng nội bộ trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng. Chỉ có làm được như vậy, Đảng mới xứng đáng là “người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”[7], luôn được nhân dân tin yêu, một lòng, một dạ tin theo Đảng, hăng hái trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Đảng phải luôn lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, chăm lo mọi mặt cho nhân dân và đưa đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[8]. Do vậy, “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”[9]. Việc đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống của nhân dân, phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Tích cực nêu cao tinh thần gương mẫu, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân; cán bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát, phê bình của nhân dân. Nhân dân có nghĩa vụ và trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Đảng phải có trách nhiệm chăm lo mọi mặt đời sống cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh giành thống nhất nước nhà, Đảng phải lo. Ngay đến cả tương, cà, mắm, muối của dân, Đảng đều phải lo”[10].

Cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng, thực sự là tấm gương cho nhân dân noi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”[11]. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đạo đức trong sáng, mà còn phải là tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu. Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải thực sự gương mẫu, phải cải tiến phương pháp công tác phải ra sức phát huy trí tuệ và tinh thần sáng tạo của quần chúng. Theo Hồ Chí Minh để thực hiện điều này cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững tình đoàn kết nhất trí giữa Đảng và quần chúng, phải đẩy mạnh thi đua yêu nước, thực hiện sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.

Hồ Chủ tịch nói chuyện với đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần II, tháng 2/1951 (Ảnh tư liệu).

Làm tốt hơn nữa công tác dân vận. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là vấn đề có tính chiến lược, là điều kiện quan trọng củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Công tác dân vận là việc vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, hay nói cách khác là đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống, làm tốt công tác dân vận thì mọi chính sách của Đảng sẽ nhanh chóng được hiện thực hóa. Do vậy, cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải nâng cao uy tín và hoàn thiện các khả năng tuyên truyền, thuyết phục vận động quần chúng nhân dân một cách có hiệu quả thiết thực.

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ chặt mối quán hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong tình hình hiện nay

Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”[12]. Kết quả trên góp phần quyết định vào việc tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Bên cạnh đó, vẫn còn một số vấn đề bức xúc về đời sống, việc làm, môi trường, thiên tai, dịch bệnh, nhất là một số vụ việc phức tạp chậm được giải quyết; quan liêu, tham nhũng, tiêu cực chậm được đẩy lùi… những điều này đã tác động không nhỏ đến tư tưởng, lòng tin của một bộ phận nhân dân, làm ảnh hưởng đến việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở một số nơi còn chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhất là những vấn đề bức xúc của nhân dân; việc tuyên truyền, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia một số phong trào, cuộc vận động chưa thực sự hiệu quả; công tác giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, chính quyền có kết quả còn hạn chế; một số vụ việc phức tạp chậm được giải quyết, gây tâm lý dồn nén, tích tụ bức xúc trong nhân dân; một bộ phận nhỏ nhân dân bị các thế lực thù địch, đối tượng cực đoan lợi dụng kích động, gây ra nhiều vụ việc phức tạp, tạo “điểm nóng” về an ninh, trật tự.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi tăng cường hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Để góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, thì một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng đó là cần quán triệt sâu sắc và vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói chung và giữ chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân nói riêng.

Một là, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên về giữ chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, tạo cơ sở, nền tảng giữ chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, bởi chỉ khi nào từng cấp ủy, cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng đắn, thái độ, trách nhiệm cao thì những chủ trương, chính sách của Đảng mới thực sự đi vào cuộc sống. Để thực hiện giải pháp này cần quán triệt sâu sắc và thực hành bài học mà Hồ Chí Minh và Đảng đã chỉ ra là phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giữ chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân. “Trọng dân” là gốc của phong cách mà cơ sở lý luận của nó xuất phát từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân”, “Nước lấy dân làm gốc”, có trọng dân thì người cán bộ mới thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân. “Gần dân” là đòi hỏi khách quan của người cán bộ, đảng viên, gần dân sẽ tránh được căn bệnh quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh, muốn hiểu dân thì phải gần dân, không được quan liêu, phải hòa mình với người dân ở cơ sở, lắng nghe ý kiến của dân. Từ đó xây dựng tinh thần đoàn kết, đồng thuận để mọi người dân chung sức, đồng lòng thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước với kết quả cao nhất; có gần dân, tin dân, hiểu dân thì mới hiểu được cuộc sống, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân, từ đó mới tham mưu đúng, tham mưu trúng cho cấp ủy đảng, chính quyền những chủ trương, chính sách phù hợp với lòng dân.

Ba là, cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; nghiên cứu, ban hành cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ. Cơ chế đó phải quy định trách nhiệm cụ thể của tổ chức đảng các cấp, của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, chủ trì, chủ chốt cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc dựa vào dân để xây dựng Đảng. Tổ chức cho nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, các cấp ủy đảng phải có thái độ nghiêm túc lắng nghe, tiếp thu những ý kiến phù hợp của người dân để bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách.

Bốn là, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức. Mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức rõ vị trí công tác, trách nhiệm của mình là đày tớ thực sự trung thành của nhân dân, tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân. Phải dựa vào nhân dân để xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Ðồng thời, cần thực hiện tốt việc đấu tranh tự phê bình và phê bình, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện của bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.

Năm là, tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo đảm an sinh, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân; quan tâm thực hiện các chính sách cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, những nơi còn nhiều khó khăn, các hộ gia đình chính sách, đặc biệt khó khăn; từng bước bảo đảm cung ứng với chất lượng ngày càng cao hơn một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội, giảm thiểu rủi ro do thiên tai, dịch bệnh; hộ trợ tiền thuê nhà, nhà ở chính sách cho người lao động, góp phần bảo đảm đời sống, an sinh cho người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Tóm lại, giữ chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa, giá trị sâu sắc đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay, góp phần thiết thực nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Vì vậy, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cần nhận thức rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình trước nhân dân; không ngừng học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực công tác; thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện, là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức cách mạng để nhân dân tin và noi theo./.

Thiếu tá, ThS Phạm Chí Thịnh,

Viện KHXH&NVQS, BQP

          Chú thích

          [1], [2], [3], [4], [5] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.326, 333, 335, 289, 278.

          [6] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.289.

          [7] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.81.

          [8], [9] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.64, 65.

          [10] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.272.

          [11] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.16.

          [12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.201-202.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân Một là, sự cần thiết phải giữ chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân là mối quan hệ bản chất, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Đảng. Nghiên cứu trong Hồ Chí Minh toàn tập, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phát hành năm 2011, cụm từ “nhân dân” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc tới gần sáu nghìn lần, tập trung nhất là vào thời kỳ xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Điều này cho thấy, trong điều kiện hoàn cảnh nào, vấn đề phát huy vai trò, giữ chặt mối quan hệ gắn bó với nh&acir

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị

Gửi bình luận của bạn