Chủ nghĩa Mác - Lênin với sự hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác - Lênin với sự hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh

I. Chủ nghĩa Mác - Lênin nhân tố quan trọng nhất quyết định sự hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn mới do Việt Nam và thời đại đặt ra.

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh có một thế giới quan khoa học và phương pháp luận Mác xít để tìm thấy con đường cứu nước cứu dân.

Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Đặc biệt, sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp này là một trong những điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Trong thời kỳ này, nhiều phát minh khoa học mang tính vạch thời đại xuất hiện. Những phát minh khoa học này không chỉ làm bộc lộ rõ tính hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình mà còn tạo ra cơ sở khoa học để khắc phục phương pháp tư duy siêu hình này. Đồng thời, chúng cũng cung cấp những cơ sở khoa học cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác ra đời còn là kết quả của sự kế thừa có chọn lọc, tiếp thu có phê phán toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại từ cổ đại đến thời đại của C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895), nhưng trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác còn là kết quả của các yếu tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen, như: tình yêu thương những người lao động, tinh thần hy sinh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng họ, niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, cùng sự thông minh xuất chúng.

Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà ngoại giao lỗi lạc được bạn bè khắp năm châu mến phục (Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm thiếu niên Bulgaria tại Cung Thiếu niên ở Thủ đô Sofia, ngày 16-8-1957). Ảnh: TTXVN

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác được V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khoa học về thế giới vi mô phát triển và chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng ở nước Nga Xô viết, mở ra giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng, bởi nó phản ánh đúng quy luật vận động của lịch sử và đấu tranh xóa bỏ mọi hình thức nô dịch người, xây dựng một xã hội không còn người bóc lột người, người nô dịch người và sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người. Chủ nghĩa Mác-Lênin cung cấp cho những người cộng sản một thế giới quan khoa học với phương pháp luận Mác xít.

Trong gần 10 năm đi ra thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã khảo sát lý luận và thực tiễn ở hầu khắp các nước đế quốc và các thuộc địa của chúng trên thế giới. Đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc đã khảo sát công phu các cuộc cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, cách mạng Tháng Mười Nga và rút ra những kết luận quan trọng.

“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”1.

“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”2. Bởi theo Nguyễn Ái Quốc bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính do nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân. Trong thời gian ở Pháp, tác phẩm Tư bản của Các Mác là cuốn sách gối đầu giường của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp năm 1920Trong thời gian tham gia Đại hội này, được đọc các tác phẩm của Lênin và sách báo về Cách mạng Tháng Mười Nga, trong đó, tác động quan trọng nhất với anh Nguyễn là bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Trong tác phẩm này, Lênin đã giải đáp trúng vấn đề đặt ra với Việt Nam lúc này là: Giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng nào? Đó là điều Nguyễn Ái Quốc trăn trở trong suốt 10 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước. Người đã phát hiện ra chân lý: Trong thời đại ngày nay, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc một cách triệt để nhất, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản do Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga đã chỉ ra. Bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã làm cho Nguyễn Ái Quốc rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ và vô cùng tin tưởng Lênin và Quốc tế III. Bởi trên thế giới khi đó chỉ có Lênin và Quốc tế III là hết sức ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc vui mừng đến phát khóc lên khi mặt trời chân lý chói qua tim. Ngồi một mình trong buồng mà Người nói to lên như nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!"3. Người khẳng định: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”4.

Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, anh Nguyễn đã cùng với đa số Đảng viên Đảng xã hội quyết định thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Phe thiểu số chống việc gia nhập Quốc tế III ở lại Đảng Xã hội Pháp. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên trở thành người cộng sản và được công nhận là người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Chủ nghĩa Mác - Lê nin là nhân tố quan trọng nhất trong việc phát triển tư tưởng Nguyễn Ái Quốc. Từ một người yêu nước Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản có một thế giới quan khoa học và một phương pháp luận Mác xít, tích cực tham gia các phong trào cộng sản trên thế giới.

2. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đúng đắn, sáng tạo chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và người lãnh đạo ở Việt Nam từ giữa thế kỷ XI X đến đầu thế kỷ XX.

Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô vào học tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Trường Đại học Bônsêvích này là một lò đào tạo cán bộ cộng sản đầu tiên cho các nước Phương Đông. Trong thời gian ở Liên Xô lần thứ nhất, gần một năm rưỡi ở Mátxcơva - Trung tâm cách mạng của thế giới, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục viết nhiều bài báo gửi về báo Le Pa ria ở Pháp, viết thư bàn công tác với Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, đồng thời, anh đã viết nhiều bài đăng trên tập san của Quốc tế Cộng sản, báo L’ Humanité, la Vie Ouvrière và báo Prađa, hoàn thành tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp, để xuất bản ở Pari và viết hàng loạt báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về tình hình Đông Dương và Việt Nam. Trong các tác phẩm và các công trình lý luận đó, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục sự nghiệp của Lênin vạch rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, bằng cách phân tích một cách sâu sắc chủ nghĩa thực dân mà anh đã dày công nghiên cứu nó trên phạm vi quốc tế. Từ đó, từng bước làm rõ cách thực hiện cứu dân, cứu nước bằng đường lối, phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, phù hợp với các nước Phương Đông và tiến tới phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại mới.  Nguyễn Ái Quốc đã bổ sung, phát triển lý luận Mác - Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực bảo vệ và phát triển lý luận của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Sau Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Nguyễn Ái Quốc đã được mời dự các Đại hội của các tổ chức thuộc Quốc tế Cộng sản. Như dự Đại hội III Công hội Đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản thanh niên, Hội nghị của Tổ chức Quốc tế Cứu tế Đỏ.

Từ 1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ nhằm sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định thực hiện thành công cuộc cách mạng giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

          Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây là một tổ chức có tính quá độ sang Đảng cộng sản, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội có báo Thanh niên bằng tiếng Việt để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Đồng thời Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện các thanh niên yêu nước thành cán bộ cách mạng rồi đưa họ trở về nước hoạt động. Trường mở được 10 khóa, mỗi khóa từ 1 tháng đến 3 tháng, tổng số học viên có khoảng 300 người. Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp học này đến năm 1927 được biên tập và xuất bản thành sách Đường Kách mệnh. Những bài giảng lý luận cách mạng của Nguyễn Ái quốc, báo Thanh niên và sách Đường Kách mệnh đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh khai sáng con đường thực hiện khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của Việt Nam. Cách mạng Việt Nam phải có Đảng Cộng sản với chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt để lãnh đạo. Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó nòng cốt là liên minh công nông đoàn kết chặt chẽ với trí thức. Vận mệnh cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam gắn liền với vận mệnh của cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế giới.       

Kết quả của công cuộc Nguyễn Ái Quốc tryền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước là: Từ tháng 6 cho đến tháng 8-1929, từ Thanh niên cách mạng Hội ra đời 2 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng. Tháng 9 - 1929, cánh tả trong Tân Việt thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn. Nhận được những tin tức đó, để kịp thời chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước bởi 3 Đảng cộng sản này đều tự nhận là đại diện cho giai cấp công nhân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, chủ trì việc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội nghị họp làm nhiều cuộc ở nhiều địa điểm bí mật khác nhau trong thời gian khá dài từ ngày 6-1-1930 đến ngày 8-2-1930 ở Hồng Kông.

Tư tưởng Hồ Chí Minh được xác lập, định hình về cơ bản qua việc Người chuẩn bị và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện cơ bản của Đại hội thành lập Đảng do Người khởi thảo. Đó là Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt nam, Lời kêu gọi. Các văn kiện này được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó chính thức khẳng định rõ những quan điểm cơ bản về đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam, việc tổ chức, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu mục tiêu và con đường cách mạng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”5, “đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng”6, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là liên minh Công - Nông - Trí; cách mạng Việt Nam là một bộ phận cách mạng thế giới. Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc thấm trong từng câu chữ của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế trong đường lối cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và người lãnh đạo cách mạng Việt Nam kéo dài hơn 70 năm từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Về mặt lý luận, Trước hết, Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật hình thành Đảng Cộng sản. Theo học thuyết Mác - Lênin thì Đảng Cộng sản ra đời bởi sự kết hợp 2 yếu tố là chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Điều này phù hợp với hoàn cảnh các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân lớn mạnh. Còn nước ta là một nước thuộc địa và phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, số lượng công nhân ít. Hồ Chí Minh sáng lập Đảng và tổng kết nêu rõ quy luật ra đời Đảng cộng sản ở các nước như Việt Nam gồm ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”7.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất cách mạng, khoa học và sự phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin ở nhiều vấn đề lý luận quan trọng, nhất là lý luận về giai cấp - dân tộc và lý luận về chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin nhân tố quyết định nhất sự hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn mới do Việt Nam và thời đại đặt ra.

II. Chủ nghĩa Mác - Lênin cơ sở lý luận của sự không ngừng phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh - Là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng đưa đất nước đi lên.

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở, không ngừng được đổi mới và phát triển trong sự phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Về bản chất, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết phát triển, là hệ thống lý luận khoa học mở, luôn được bổ sung, phát triển. Ngay từ năm 1887, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”8. Kế tục và phát triển chủ nghĩa Mác, Lênin khẳng định rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”9. Vào năm 1924, Nguyễn Ái Quốc cũng cho rằng: “ Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại“10. Cho nên Nguyễn Ái Quốc xác định: “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông“11. C.Mác,  Ph.Ăngghen V.I.Lênin, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu những người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa của mỗi nước. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng Việt Nam là nhân tố quyết định nhất dẫn tới hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin như Triết học Mác - Lênin, Kinh tế học chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, sự thống nhất hữu cơ giữa Thế giới quan khoa học và phương pháp luận Mác xít, học thuyết giải phóng xã hội, giải phóng con người, đã được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo trong quá trình Người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, lãnh đạo cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là:  

Thứ nhất, về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Thứ hai, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thứ tư, về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thứ năm, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thứ sáu, về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Thứ bảy, về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thứ tám, về đạo đức cách mạng. Thứ chín, về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Thứ mười, về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm, xóa bỏ chế độ thực dân tồn tại gần 100 năm. Mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1945 đến năm 1954, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Từ năm 1954 đến 1975, Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi. Từ 1975 Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước Việt Nam cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1986, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới. Sau 38 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 32 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộ, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay12.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân ta tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới nhằm đưa Việt Nam tới phồn vinh, hạnh phúc.

Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định quan điểm chỉ đạo đầu tiên là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa“13.

Trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định mục tiêu tổng quát của công cuộc đổi mới trong thời gian tới. Đó là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa“14. Đến năm 2025: Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Để đạt được các mục tiêu đó Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã nêu ra một cách toàn diện những nhiệm vụ cơ bản trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng cộng sản Việt Nam.

        Một là: Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Hai là: Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ba là: Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu, rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Bốn là: Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Năm là: Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên. Sáu là: Tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu. Bảy là: Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tám là: Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Chín là: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Mười làTiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới.

Thực hiện tốt 10 nhiệm vụ đó, chính là góp phần tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới. Đảng Cộng sản Việt Nam nhất định khơi dậy được khát vọng phát triển đất nước của toàn Đảng, toàn dân, phát huy được ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, phồn vinh, hạnh phúc theo định hướng xã hội chủ nghĩa cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của dân tộc Việt Nam./.

PGS.TS.NGƯT Nguyễn Thế Thắng



1Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 296.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, S.đ.d, tr. 304. 

3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.562 .

4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, S.đ.d, tr.563.

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1.

6 Hồ Chí Minh: Toàn tập,  t.3, S.đ.d, tr.22.

7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 406.

8 C.Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, Tập 36, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 1999, tr. 796.

9 Lênin : Toàn tập, Tập 4, NXB Tiến bộ, Matxcơva,1974, tr. 232.

10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 509-510. 

11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 1, S.đ,d, tr.  510.

12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ XIII, tập1, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2021, tr.104.

13 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ XIII, tập1, S.đ.d, tr.109.

14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ XIII, tập1, S.đ.d, tr.111-112.

 

I. Chủ nghĩa Mác - Lênin nhân tố quan trọng nhất quyết định sự hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn mới do Việt Nam và thời đại đặt ra. 1. Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh có một thế giới quan khoa học và phương pháp luận Mác xít để tìm thấy con đường cứu nước cứu dân. Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Đặc biệt, sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp này là mộ

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị

Gửi bình luận của bạn