Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dành nhiều trang viết để trình bày về “chế độ chính trị”, “mô hình chính trị”, “hệ thống chính trị” và “cơ chế vận hành hệ thống chính trị” Việt Nam với tư cách là một vấn đề cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay (thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Đó là những nội dung quan trọng cần được nghiên cứu để vận dụng trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị nước ta, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng ta.

MÔ HÌNH CHÍNH TRỊ VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH TỔNG QUÁT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
MÔ HÌNH CHÍNH TRỊ VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH TỔNG QUÁT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

Với cách tiếp cận của khoa học chính trị, có thể hiểu:

Mô hình chính trị là tổng thể những thành tố, cấu trúc và những mối quan hệ cơ bản, đặc trưng, có tính ổn định, thể hiện bản chất của đời sống chính trị, cho phép nhận diện được những đặc tính khác biệt về nội dung và hình thức, phương thức tồn tại, phát triển của chế độ chính trị và hệ thống chính trị của một quốc gia trong một giai đoạn, một thời đại.

Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể, gồm các thể chế chính trị (nhà nước, đảng chính trị, các phong trào xã hội, hệ thống bầu cử…), được xây dựng theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.

Chế độ chính trị là tổng hợp các chế định của hiến pháp và pháp luật, hệ thống các cơ chế, phương thức, quan hệ chính trị được thiết lập, nhằm quy định tổng thể về những vấn đề có tính nguyên tắc chung như: Bản chất nhà nước, nguồn gốc nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vai trò của các chủ thể chính trị trong đời sống xã hội, quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, được sử dụng trong một giai đoạn lịch sử nhất định, trong tổ chức và vận hành hệ thống chính trị, nhằm hiện thực hóa quyền lực chính trị và mục tiêu chính trị.

Trong chế độ chính trị, hệ thống chính trị đóng vai trò quan trọng, là hệ thống các chủ thể chính trị, công cụ và phương thức để thực hiện chế độ chính trị. Bản chất chế độ chính trị thể hiện rõ nhất trong mô hình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, trong mối quan hệ giữa nhà nước với các đảng phái chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và với công dân; quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong một quốc gia.

Về mô hình chính trị Việt Nam

Tổng Bí thư viết: “Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”1. Khi bàn về mô hình chính trị, Tổng Bí thư khẳng định bản chất dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa, coi dân chủ “vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”2. Như vậy, yếu tố cơ bản đầu tiên của mô hình chính trị Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, nền dân chủ đó mang bản chất chính trị, quy định những yếu tố cấu thành của mô hình chính trị và là “một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”3. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ấy, để Nhân dân thực sự làm chủ, để phát huy dân chủ, Tổng Bí thư khẳng định quan điểm của Đảng ta là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”4.

Phân biệt sự khác nhau “về bản chất” giữa nhà nước pháp quyền tư sản nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tổng Bí thư cho rằng, “pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”5. Sự khác biệt giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng còn ở “chức năng kép” của Nhà nước pháp quyền. Đó là “Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng”6.

Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đóng vai trò hạt nhân của nền dân chủ và hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền là trung tâm của hệ thống chính trị. Từ logic đó, Tổng Bí thư đã chỉ ra vai trò của Đảng và “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”7.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra bao gồm nhiều nội dung, cụ thể như sau:

Một là, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân8.

Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội9.

Ba là, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc pháp quyền. Một nhà nước đủ năng lực, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra giám sát, kiểm soát quyền lực10.

Bốn là, mọi cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương đến cơ sở do Nhân dân bầu ra bằng các cuộc bầu cử dân chủ, đại diện cho quyền lực của Nhân dân, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương thông qua chức năng lập hiến, lập pháp, ra quyết định; thực hiện giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước11.

Năm là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa12.

Sáu là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có vai trò nòng cốt chính trị cho sự làm chủ của Nhân dân; củng cố, mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân; động viên Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, mở rộng quan hệ hữu nghị giữa Nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới13.

Bảy là, trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ14.

Tám là, các phương thức thực thi dân chủ cơ bản gồm: Thông qua Nhà nước pháp quyền, thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên khác, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò nòng cốt chính trị để Nhân dân làm chủ15.

Chín là, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng và của hệ thống chính trị16.

Mười là, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước17.

Mười một là, Nhân dân Việt Nam thực hiện quyền dân chủ của mình trên tất cả mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để Nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân. Đồng thời, đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo18.

Có thể nói rằng, đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chế độ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.  

Về cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị

Trong cuốn sách, Tổng Bí thư nhiều lần nhắc lại rằng, cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Đây là cơ chế tổng thể, phản ánh những mối quan hệ cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong cơ chế đó, mỗi chủ thể đóng vai trò, vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, kiểm soát lẫn nhau, tạo ra động lực của cơ chế, phát huy tính hiệu quả của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đã được chế định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, sự vận hành cơ chế này, từ phối hợp thống nhất hành động cho đến kiểm soát quyền lực trong từng chủ thể và trong toàn bộ mối quan hệ của cơ chế vẫn chưa được nhận thức và cụ thể hóa đầy đủ.

Hệ quả tiêu cực có thể xảy ra nếu phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không được chế định và áp dụng rõ ràng. Việc Đảng ta trở thành đảng duy nhất cầm quyền làm cho mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước rất chặt chẽ đến mức “hóa thân” vào nhau, nhưng vấn đề đặt ra là, có thể dẫn đến “Đảng hóa Nhà nước” và “Nhà nước hóa Đảng”. Nếu để xảy ra tình trạng “nhầm lẫn” giữa quyền lực của Đảng và quyền lực Nhà nước, Đảng trùm lên Nhà nước hay Nhà nước trùm lên Đảng thì hệ thống quyền lực sẽ bị rối loạn, tê liệt.

Để làm sáng tỏ và vận dụng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trong thực tiễn, Tổng Bí thư nhấn mạnh rằng, trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước “đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”19.

Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, cần “đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”20Việc Đảng lãnh đạo như thế nào là câu hỏi luôn đặt ra đối với một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền. Tổng Bí thư nêu rõ: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ”21. Để đáp ứng được vai trò lãnh đạo, Tổng Bí thư chỉ rõ, “Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”22.

Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, Tổng Bí thư viết: “Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”. […] Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế”23.

Cần kết hợp hài hòa, chặt chẽ và có hiệu quả giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng, giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, đồng thời hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam… Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ - nội dung then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ24.

Trong cơ chế đó, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”25. Vì vậy, để cơ chế vận hành thông suốt, Tổng Bí thư cho rằng, cần “Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đồng thời khắc phục bằng được sự yếu kém, chậm trễ trong công tác lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách, thực thi công vụ. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp; nâng cao uy tín và hiệu quả của hoạt động tư pháp”26.

Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhân dân làm chủ không chỉ bằng Nhà nước pháp quyền, mà còn làm chủ thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là một hình thức dân chủ đại diện ngoài Nhà nước rất quan trọng mà thông qua đó, Nhân dân có thể tham gia quản lý Nhà nước, phát huy được năng lực chủ động và sáng tạo trong đời sống chính trị - xã hội. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã được hiến định, luật định và được Tổng Bí thư nhắc lại trong cuốn sách và cũng là chủ trương lớn của Đảng về vị trí, vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị Việt Nam. Để đáp ứng được yêu cầu nòng cốt chính trị cho Nhân dân làm chủ, Tổng Bí thư nhấn mạnh, cần “Đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, làm cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố, tăng cường lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”27. Trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đảng ta vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tổng Bí thư lưu ý, “Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua việc phát huy vai trò thành viên của Mặt trận chứ không đứng ngoài, đứng trên để lãnh đạo Mặt trận”28. Bên cạnh đó, Tổng Bí thư cũng nhiều lần nhấn mạnh đến việc tạo điều kiện để Nhân dân có thể thực hành dân chủ nhiều nhất, trên cơ sở kết hợp các hình thức làm chủ khác nhau, dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và coi trọng thực hành dân chủ ở cơ sở. Như vậy, cơ chế tổng quát Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ vốn rất trừu tượng đã được Tổng Bí thư xác định khá rõ ràng, mạch lạc, không lẫn lộn, nhất là giữa chức năng lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.

Tóm lại, “Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”29. Với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, với vai trò là một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, Đảng ta phải giải quyết nhiều vấn đề mới và lớn, không chỉ mang tầm quốc gia dân tộc mà còn mang tầm thời đại.

Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với tư cách là một nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng đã từng kinh qua nhiều cương vị lãnh đạo khác nhau, trăn trở và trải nghiệm với thực tiễn của thời kỳ đổi mới, đã cung cấp cái nhìn có tính tổng kết về lý luận và thực tiễn lãnh đạo của Đảng, cung cấp những giá trị phương pháp luận quan trọng cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, của các tổ chức đảng và cho tất cả đảng viên./.

CHÚ THÍCH:

             1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 19, 20, 21, 22, 23, 25, 26, 27, 28, 29 GS, TS. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.28, 28, 28, 28, 29, 28, 29, 28, 29, 30, 30, 33, 28-29, 57, 57, 115, 25.

             8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 24 Xem: GS, TS. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.28, 29-30, 57, 73-83, 48, 104, 28, 106, 30, 111, 28-29, 56-57.

GS, TSKH. Phan Xuân Sơn

 

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Với cách tiếp cận của khoa học chính trị, có thể hiểu: Mô hình chính trị là tổng thể những thành tố, cấu trúc và những mối quan hệ cơ bản, đặc trưng, có tính ổn định, thể hiện bản chất của đời sống chính trị, cho phép nhận diện được những đặc tính khác biệt về nội dung và hình thức, phương thức tồn tại, phát triển của chế độ chính trị và hệ thống chính trị của một quốc gia trong một giai đoạn, một thời đại. Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể, gồm các thể chế chính trị (nhà nước, đảng chính trị, các phong trào xã hội, hệ thống bầu cử…), được xây dựng theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị. Chế độ chín

Tin khác cùng chủ đề

Công tác xây dựng đảng thời kỳ đổi mới (1986-2021) - Thành tựu và bài học kinh nghiệm
Nhiệm vụ cấp bách cần được thực hiện với quyết tâm cao
Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Công tác tuyên giáo với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
          Chuyên gia xây dựng Đảng: 3 điểm mới căn bản nghiêm cấm đảng viên không được làm
Đẩy mạnh thực hành dân chủ, tiếp tục phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước

Gửi bình luận của bạn