Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cơ bản cho lý luận về đạo đức của đảng cộng sảm cầm quyền. Trong hơn 35 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của đảng cộng sản cầm quyền trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò, sứ mệnh của Đảng duy nhất cầm quyền.

Lý luận về đạo đức của Đảng Cộng sản cầm quyền và thực tiễn Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới
Lý luận về đạo đức của Đảng Cộng sản cầm quyền và thực tiễn Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của đảng cầm quyền

 

Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của đạo đức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và đối với đảng cộng sản cầm quyền

 

Từ rất sớm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận thức rõ vai trò của đạo đức đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, C.Mác chỉ ra rằng, đạo đức là một phạm trù lịch sử, nó bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử, bởi tồn tại xã hội, đồng thời là kết quả của quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức và hoạt động thực tiễn của con người. Ph.Ăngghen viết: “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”(1).

 

Trong các hình thái đạo đức của các thời đại khác nhau, chủ nghĩa Mác đặc biệt đánh giá cao vai trò của đạo đức mới trong xã hội tương lai - đạo đức cộng sản. Đó là “một đạo đức thực sự có tính người”(2), “thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức vô sản - là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài”(3).

 

Giá trị đạo đức không chỉ được thể hiện, phát huy, trở thành động lực trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, mà nó còn là một trong những yếu tố quyết định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, nhất là khi đảng đó trở thành đảng cầm quyền. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức chi phối xã hội là đạo đức của giai cấp thống trị, “vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị”(4). Tính giai cấp của đạo đức thể hiện ở chỗ, mỗi chế độ xã hội thường xây dựng các chuẩn mực đạo đức tương thích với các thiết chế chính trị và lợi ích xã hội do chế độ xã hội đó đặt ra.

 

Đạo đức cũng là một trong những yếu tố tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội, nó thẩm thấu vào các mối quan hệ xã hội và có tác dụng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ chính trị. Đảng cầm quyền tạo được sự giao thoa giữa lý tưởng cách mạng với niềm tin của nhân dân trên cơ sở năng lực lãnh đạo và phẩm chất đạo đức của đảng sẽ khơi dậy, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, làm cho nhân dân tin tưởng đi theo và ủng hộ, qua đó đảng giữ vững được vị thế cầm quyền và vai trò lãnh đạo.

 

Sau khi cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân giành được thắng lợi, đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân - trở thành đảng cầm quyền tiến hành cuộc cách mạng toàn diện, triệt để nhằm xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với một hệ thống các chuẩn mực đạo đức mới. Trong đạo đức mới, chuẩn mực bao trùm, xuyên suốt là: lợi ích của đảng phù hợp với lợi ích của giai cấp và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, bởi những người cộng sản “tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”(5); “tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số”(6). Nhân tố cốt lõi nhất của đạo đức cộng sản chính là sự thống nhất về lợi ích giữa đảng với giai cấp công nhân và nhân dân. Điều đó tạo thành động lực to lớn thu hút toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động đi theo, ủng hộ và trở thành cơ sở chính trị - xã hội rộng lớn bảo đảm vững chắc vị thế cầm quyền của đảng.

 

V.I.Lênin là lãnh tụ của đảng cộng sản đầu tiên cầm quyền. Ngày 27/3/1922, trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

 

bônsêvích Nga, V.I.Lênin khẳng định: “đảng ta là đảng cầm quyền duy nhất”(7). Là đảng cầm quyền, nên những điều kiện bảo đảm cho sự cầm quyền của đảng được Người rất coi trọng. Người đã nghiên cứu, vận dụng sáng tạo học thuyết Mác về đảng cộng sản, đồng thời bổ sung, phát triển lý luận về đảng cầm quyền từ thực tiễn của nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, trong đó có lý luận về đạo đức của đảng cầm quyền.

 

V.I.Lênin khẳng định, để bảo đảm vững chắc vị thế cầm quyền, lãnh đạo giai cấp, lãnh đạo xã hội, trước hết đảng phải có lý luận khoa học và cách mạng soi đường. “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”(8)“chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”(9). Đồng thời, Người cũng khẳng định: đảng cộng sản phải đại diện cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”(10). Sự kết hợp của ba yếu tố: năng lực trí tuệ lãnh đạo sáng suốt; danh dự trách nhiệm trước sứ mệnh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội khỏi mọi sự áp bức, bóc lột; lương tâm, phẩm giá đạo đức trong sáng sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm giữ vững vị thế cầm quyền, lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và toàn xã hội. “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản”(11); vì vậy, “cuộc đấu tranh giai cấp còn tiếp tục, và nhiệm vụ của chúng ta là làm cho tất cả mọi lợi ích phải phục tùng cuộc đấu tranh này. Và đạo đức cộng sản của chúng ta cũng phải phục tùng nhiệm vụ này. Chúng ta nói rằng: đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản”(12).

 

Khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và trong điều kiện của Đảng cầm quyền, V.I.Lênin đặc biệt coi trọng công tác xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh về đạo đức, kiên quyết đấu tranh, phòng ngừa mọi biểu hiện thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Tất cả những căn bệnh: quan liêu, nhu nhược, tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân, kiêu ngạo cộng sản... nếu không phòng ngừa và đấu tranh loại bỏ thì sẽ là nguy cơ lớn đe dọa vị thế cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng. Người chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình”(13).

 

Từ đó, V.I.Lênin yêu cầu, đảng phải hết sức coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng trong sạch, vững mạnh, kết hợp với xây dựng một nhà nước kiểu mới theo nguyên tắc “Thà ít mà tốt”, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cán bộ, đảng viên trong đảng và trong bộ máy nhà nước phải được tuyển chọn kỹ càng theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, bảo đảm về chất lượng. Họ phải là “những phần tử ưu tú... phải không sợ thừa nhận bất cứ một khó khăn nào và không lùi bước trước bất cứ một cuộc đấu tranh nào để đạt được mục đích”(14).

 

Khi đảng cầm quyền, nguy cơ tha hóa về quyền lực, lạm quyền là rất lớn. Sớm nhận ra vấn đề này, V.I.Lênin yêu cầu phải làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát quyền lực bằng phương thức kết hợp giữa hệ thống pháp luật với công tác tổ chức, công tác kiểm tra của Đảng, với thực thi dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển lý luận về đạo đức của Đảng cầm quyền ở Việt Nam.

 

Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng một hệ thống lý luận về đạo đức cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi cách mạng thành công, giành lại độc lập dân tộc và bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm sức, trí tuệ cho công việc hệ trọng là xây dựng Đảng xứng đáng “là đạo đức”, “là văn minh”.

 

Lý luận về đạo đức của đảng cầm quyền được Hồ Chí Minh nhìn nhận ở hai góc độ: đạo đức của toàn Đảng và đạo đức của mỗi đảng viên. Đạo đức của Đảng thể hiện ở sứ mệnh lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền; xây dựng một nền chính trị liêm khiết; tính tiên phong gương mẫu; tính tổ chức kỷ luật, tự giác nghiêm minh; tinh thần tự phê bình và phê bình; lấy phụng sự Tổ quốc, nhân dân và dân tộc làm lợi ích tối thượng; v.v.. Đạo đức của mỗi đảng viên thể hiện ở “tư cách của người cách mạng”, “ít lòng ham muốn về vật chất”, “xem thường danh vị, ngôi thứ và tiền bạc, vì chúng là cội nguồn sinh ra đố kỵ và hận thù và là nguyên nhân của những hành động chỉ điểm, phản bội làm tổn hại nghiêm trọng đến sự nghiệp cách mạng”(15). Để giữ vững vị thế cầm quyền và thực thi một nền chính trị liêm khiết, Đảng phải kết hợp hài hòa giữa “pháp trị” và “đức trị”; cùng với giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, “thực hành chữ LIÊM”, “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(16).

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mặc dù sau đó thực dân Pháp quay lại xâm lược, Đảng ta mới giữ vai trò cầm quyền trong phạm vi nhất định và tuyên bố tự giải tán, nhưng với tầm nhìn xa trông rộng và nhãn quan chính trị sáng suốt, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nguy cơ có thể làm suy yếu Đảng, đe dọa vị thế cầm quyền của Đảng - đó là những thói hư, tật xấu, sự suy đồi về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, của một số tổ chức đảng. Tất cả những khuyết tật này nếu không được ngăn chặn, loại bỏ sẽ gây tác hại khôn lường, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với vị thế cầm quyền của Đảng, gây khó khăn cho cuộc kháng chiến diễn ra ác liệt, gây tác hại lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính vì vậy, tháng 10/1947, Người đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Trong tác phẩm này, Người đã phân tích rõ “tư cách của người cách mạng và đạo đức cách mạng”, bao gồm mười hai điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng và xây dựng Đảng về đạo đức. Đây chính là những chuẩn mực đạo đức của một đảng cầm quyền. Đồng thời, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những căn bệnh, khuyết điểm mà cán bộ, đảng viên dễ mắc phải bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân. Người xem đây là “căn bệnh mẹ” đẻ ra trăm thứ bệnh khác, như: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, đầu óc hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa, bè phái... Mặt khác, Người cũng chỉ ra phương pháp, cách thức rèn luyện, tu dưỡng “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để mỗi cán bộ, đảng viên hằng ngày soi vào đó mà quyết tâm sửa chữa, rèn luyện, phấn đấu.

 

Trong Di chúc, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh vẫn là công việc hàng đầu, trước hết. Do vậy, Người yêu cầu: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(17); cán bộ, đảng viên phải là những con người vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước, thương dân, “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”(18).

 

Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo đức của Đảng cầm quyền với tấm gương đạo đức trong sáng của đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo nên sức hút và trở thành yếu tố thu phục nhân dân đi theo, ủng hộ sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 

Không chỉ xây dựng hệ thống lý luận đạo đức cách mạng nền tảng, Hồ Chí Minh còn là tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực về sự kết hợp hài hòa giữa “pháp trị” và “đức trị” trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người luôn tâm niệm: đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng của người cách mạng, bởi vì muốn làm cách mạng thì trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và với dân tộc.

 

Người căn dặn: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(19).

 

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung đạo đức của Đảng cầm quyền thể hiện, thấm sâu trên mọi lĩnh vực. Về chính trị, tư tưởng, Đảng phải có lý luận khoa học và cách mạng làm nền tảng soi đường dẫn lối, đề ra đường lối đúng đắn để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình. Về tổ chức, đạo đức của Đảng cầm quyền được thể hiện vừa ở đạo đức của toàn Đảng, của các tổ chức đảng, vừa là đạo đức của mỗi đảng viên. Về hành động, các tổ chức đảng và mỗi đảng viên phải thực hiện theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, lấy lợi ích của quốc gia - dân tộc, lợi ích của nhân dân làm mục tiêu tối thượng để phục vụ, cống hiến. Về phương thức thực hiện, kết hợp hài hòa giữa “pháp trị” và “đức trị”, qua cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân, đặc biệt qua sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng và đối với từng cán bộ, đảng viên.

 

2. Sự vận dụng, phát triển lý luận về đạo đức của đảng cầm quyền qua hơn 35 năm đổi mới ở Việt Nam

 

Từ thực tiễn hơn 35 năm đổi mới, lý luận về đạo đức của đảng cầm quyền được Đảng ta vận dụng, bổ sung, phát triển và đạt được những thành tựu cơ bản sau:

 

Một là, quy định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của đảng cầm quyền

 

Đảng đã quy định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của mình trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 xác định rõ vị thế cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đảng ta tiếp tục xác định yêu cầu, trách nhiệm của Đảng cầm quyền là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kiên định đường lối đổi mới của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng. Đảng phải trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

 

Hai là, tư duy, nhận thức lý luận về đạo đức của đảng cầm quyền không ngừng được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với bối cảnh mới

 

Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng không có nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng, về đổi mới, chỉnh đốn Đảng, gần đây thể hiện rõ, tập trung ở các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, lần đầu tiên những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã được Đảng ta chỉ ra, giúp mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên căn cứ vào đó mà tự soi xét và nâng cao ý thức trách nhiệm, tự giác trong việc thực hiện Nghị quyết.

 

Từ Đại hội XII, Đảng xác định xây dựng Đảng về đạo đức là một nội dung trong công tác xây dựng Đảng. Đến Đại hội XIII của Đảng, công tác xây dựng Đảng được xác định đầy đủ: xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

 

Đại hội XIII đã bổ sung thành tố “năng lực cầm quyền” bên cạnh các thành tố “năng lực lãnh đạo” và “sức chiến đấu”. Mục tiêu tổng quát của định hướng phát triển đất nước có đoạn ghi: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(20). Đây là một sự bổ sung, phát triển mới của Đảng trong nhận thức lý luận về Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền, là sự kết hợp giữa xây dựng với chỉnh đốn Ðảng; giữa xây dựng Ðảng với bảo vệ Ðảng trong điều kiện mới.

 

Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII khẳng định: tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng với một số điểm mới nổi bật: cùng với xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải mở rộng phạm vi xây dựng, chỉnh đốn cả hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đi liền với ngăn chặn, đẩy lùi phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực; bổ sung, làm rõ hơn hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tiêu cực” sát với tình hình mới, trong đó nhấn mạnh đến nguy hại của suy thoái về đạo đức, phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy giảm niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của đất nước; nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút ý chí chiến đấu trong bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN và bảo vệ nhân dân.

 

Ba là, xác định rõ hơn về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một Đảng cầm quyền

 

Nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng được bổ sung ngày càng rõ và toàn diện hơn. Tại Đại hội VII của Đảng, Cương lĩnh năm 1991 xác định: Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra; bằng biện pháp nêu gương của cán bộ, đảng viên; giới thiệu những đảng viên ưu tú lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể.

 

Đến Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh năm 2011 bổ sung, làm rõ hơn trách nhiệm cá nhân, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu; Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và năng lực lãnh đạo.

 

Tại Đại hội XII của Đảng, điểm mới trong nội dung xây dựng Đảng được bổ sung toàn diện hơn, trong đó không chỉ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ, mà nhấn mạnh xây dựng Đảng về đạo đức, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.

 

Đến Đại hội XIII, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh, làm rõ, toàn diện hơn phương thức dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây không chỉ là sự kế thừa bài học lớn “lấy dân làm gốc” từ trong lịch sử cách mạng nước ta, mà còn là sự tổng kết từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng thời kỳ đổi mới.

 

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong nhận thức, phát triển lý luận về đạo đức của Đảng cầm quyền còn một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ, từ khái niệm đến nội hàm, các tiêu chí đánh giá đạo đức của đảng cầm quyền; quan hệ giữa xây dựng Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ; những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng Đảng về đạo đức; định hướng và các giải pháp đẩy mạnh xây dựng Đảng về đạo đức để Đảng ta luôn xứng đáng “là đạo đức” của Đảng duy nhất cầm quyền; v.v.. ./.

__________________________________________________

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., T.2, tr.199-200.

(2), (3), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, Sđd, T.20, tr.137, 136, 137.

(5), (6) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Sđd, T.4, tr.614, 611.

(7), (13), (14) V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., T.45, tr.137, 141, 445.

(8), (9) V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Sđd, T.6, tr.30, 32.

(10) V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Sđd, T.34, tr.122.

(11), (12) V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Sđd, T.41, tr.372, 369.

(15) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., T.2, tr.514.

(16), (19) Hồ Chí Min, Toàn tập, Sđd, T.6, tr.127, 16.

(17), (18) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.15, tr.611-612, 603.

(20) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.111.

 PGS,TS. Bùi Thị Ngọc Lan

 

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của đảng cầm quyền   Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của đạo đức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và đối với đảng cộng sản cầm quyền   Từ rất sớm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận thức rõ vai trò của đạo đức đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, C.Mác chỉ ra rằng, đạo đức là một phạm trù lịch sử, nó bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử, bởi tồn tại xã hội, đồng thời là kết quả của quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức và hoạt động thực tiễn của con người. Ph.Ăngghen viết: “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người c&aa

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn