Phương thức lãnh đạo của của tổ chức cơ sở đảng ở xã phường, thị trấn trong thực hiện dân chủ là tổng thể các cách thức, hình thức, phương pháp, quy chế, quy định, quy trình, lề lối làm việc... mà tổ chức cơ sở đảng sử dụng để lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy các cấp và Quy chế dân chủ ở cơ sở phù hợp với từng địa phương, đơn vị.

ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 6 KHÓA XIII
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 6 KHÓA XIII

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát...”[1] “Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…”[2]. Theo đó, nội dung phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn trong thực hiện dân chủ gồm các nội dung chủ yếu: bằng nghị quyết của tổ chức đảng; thông qua công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động; thông qua tổ chức đảng và đảng viên và bằng công tác tổ chức, cán bộ; bằng công tác kiểm tra, giám sát; bằng hành động gương mẫu của đảng viên.

Sau hơn 30 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18/02/1989 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị định 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998; Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 ban hành Quy chế dân chủ ở xã; Pháp lệnh số 34/2007/PL - UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Kết quả dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã thu được nhưng rất quan trọng, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Chú trọng thực hiện dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”[3]. Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII khẳng định: “Việc đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng”[4].

Tuy nhiên việc thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng còn một số hạn chế: Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt. “Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều”[5]. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân. “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”[6].

Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là do phương thức lãnh đạo chậm đổi mới. “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao”[7]. Đánh giá sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã khẳng định việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị vẫn còn những hạn chế: “Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Chậm khắc phục tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế”[8]. “Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chú trọng công tác kiểm tra, giám sát; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa tác động đến một số đối tượng, địa bàn...Chưa phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới”[9]. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là do: “Nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu thống nhất, đồng bộ trong quá trình tổ chức thực hiện”[10]. Năng lực cụ thể hoá và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, năng lực, phẩm chất, uy tín hạn chế, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật Nhà nước ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. “Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; còn để xảy ra tình trạng cục bộ, mất đoàn kết, bao biện, làm thay, áp đặt, lạm dụng quyền lực, né tránh, sợ trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo”[11].

“Những hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng phải nghiêm túc nhìn nhận, nỗ lực phấn đấu để khắc phục, tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[12]. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Tiếp tục cụ thể hoá, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"[13].

Trên cơ sở thực tiễn việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị những năm qua, Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã xác định sáu nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới: Đổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao chủ trương, đường lối của Đảng; Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động; Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Theo đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn trong thực hiện dân chủ cần thực hiện một số biện pháp sau:

Một là, đổi mới việc ra nghị quyết lãnh đạo việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, thể hiện và phản ánh hoạt động của tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Chủ trương, biện pháp lãnh đạo là trí tuệ của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng trước sự vận động phát triển của tình hình, của từng địa phương. Mọi thành tựu, hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện dân chủ đều bắt nguồn từ việc xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện dân chủ đúng đắn sát thực tiễn, phù hợp với nhân dân hay thiếu tính lý luận, thiếu tính thực tiễn, chung chung, xa rời quần chúng, không có tính khả thi. Vì vậy, để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện dân chủ đúng đắn đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên đổi mới; trước hết là đổi mới tư duy lãnh đạo thông qua việc chuẩn bị dự thảo nghị quyết lãnh đạo. Cấp ủy, tổ chức đảng quán triệt, nắm chắc, hiểu sâu những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo cốt lõi, cơ bản của Đảng, chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo của cấp trên về dân chủ và thực hiện dân chủ; bám sát Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; bám sát tình hình nhiệm vụ, thực tiễn thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn để xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với tình hình của từng địa phương, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân tin tưởng.

Đổi mới sinh hoạt cấp ủy, tổ chức đảng trong việc xác định chủ trương biện pháp lãnh đạo thực hiện dân chủ; phát huy dân chủ của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tập trung bàn bạc, thảo luận, trao đổi, thống nhất những vấn đề cơ bản, những vấn đề nhạy cảm, nảy sinh trên các lĩnh vực, các nhiệm vụ ở địa phương; nhất là những vấn đề bức xúc, nổi cộm, “điểm nóng”, những khâu yếu, mặt yếu; những vấn đề dư luận quần chúng nhân dân quan tâm…Trên cơ sở xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn, cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục đổi mới việc quán triệt, học tập, triển khai thực hiện các chủ trương, biện pháp lãnh đạo đến từng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ đảng viên, nhất là các đảng viên phụ trách và hoạt động trong các tổ chức đoàn thể quần chúng, phải dựa trên chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện dân chủ của cấp ủy, tổ chức đảng để định hướng, chỉ đạo hoạt động của tổ chức, đoàn thể; giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng tích cực tham gia thực hiện nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, quy định của địa phương.

Hai là, đổi mới việc lãnh đạo cụ thể hóa nghị quyết hiện thực hóa thành các kế hoạch, chương trình cụ thể trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

Nghị quyết lãnh đạo là những chủ trương, biện pháp có tính chất định hướng cho hoạt động thực hiện dân chủ ở từng địa phương. Nghị quyết lãnh đạo sẽ chỉ là lý thuyết nếu không đưa vào cuộc sống. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn cần đổi mới việc lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội cụ thể hóa nghị quyết thành các chương trình, kế hoạch cụ thể, phát động các cuộc vận động, các phong trào thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương; đổi mới việc quán triệt các văn bản của cấp trên để hoàn thiện và ban hành các văn bản thực hiện Quy chế dân chủ ở các xã, phường, thị trấn; rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy định có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi trong mọi hoạt động hợp pháp của nhân dân; đổi mới phân công trách nhiệm cho từng cán bộ, đảng viên phụ trách các mặt công tác.

Cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của nhà nước, các nghị quyết của tỉnh, huyện, xã, các quy định của thôn xóm, tổ dân phố một cách kịp thời; nâng cao nhận thức, năng lực thực hành dân chủ cho cán bộ, công chức và nhân dân; đa dạng hóa, lồng ghép các hình thức tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, văn bản tài liệu, thông qua hội nghị, các lớp học...tạo điều kiện để nhân dân nắm được quyền, lợi ích chính đảng và nghĩa vụ của mình, thực hiện quyền làm chủ, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Tập trung đổi mới công tác dân vận, gắn chặt với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng. Công khai các hoạt động của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội để nắm tâm tư, nguyện vọng, thái độ, các ý kiến phản hồi của nhân dân, trên cơ sở đó để cấp ủy, tổ chức đảng kịp thời điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp, sát thực tiễn. Lãnh đạo việc đổi mới về công tác tiếp dân và giải quyết khiếu kiện của công dân, tổ chức tọa đàm lắng nghe ý kiến của người dân về tinh thần, thái độ, trách nhiệm của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức cơ sở với quan điểm: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”; “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân phát huy trách nhiệm đóng góp xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng, giám sát cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống; huy động đông đảo nhân dân tham gia với tinh thần: Dân chúng đồng lòng việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng không nên.

Ba là, đổi mới công tác kiểm tra, giám sát trong thực hiện dân chủ.

Trong công tác kiểm tra phải kiên quyết thực hiện đúng chế độ, nội dung, chương trình, kế hoạch kiểm tra. Chú trọng kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, chấp hành nghị quyết của đảng viên. Kịp thời phát hiện sai sót, lệch lạc để chấn chỉnh, uốn nắn. Biểu dương những điển hình, tiêu biểu, phê phán những biểu hiện yếu kém về phẩm chất, năng lực, thiếu chuẩn mực trong tác phong, phong cách của cán bộ, đảng viên...đôn đốc, nhắc nhở, động viên những cán bộ, đảng viên thực hiện chưa tốt, chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình theo kế hoạch đề ra.

Để nắm thực chất tình hình thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cấp ủy, tổ chức đảng phải nắm chắc kết quả, tiến độ hoàn thành công việc của mỗi cán bộ, đảng viên đang đảm nhiệm. Để tránh phô trương thành tích, ưu điểm, che đậy khuyết điểm cần kiểm tra cụ thể, sâu sát nhằm phục vụ nâng cao hiệu quả trong lãnh đạo thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm phải được tiến hành thường xuyên, đảm bảo đúng quy định, có chất lượng cao, thiết thực góp phần nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cấp ủy, tổ chức đảng, kết quả thực quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện tốt công tác sơ kết, tổng kết, chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, biểu dương điển hình tiên tiến, phê phán nhắc nhở những biểu hiện yếu kém, rút ra được những kinh nghiệm có giá trị, kịp thời chỉ đạo quá trình tổ chức thực tiễn của cấp ủy, tổ chức đảng đạt kết quả cao hơn.

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NxB Chính trị Quốc gia Sự thật, HN, 2021, tr 196.

[2] Sđd 197.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NxB Chính trị Quốc gia Sự thật, HN, 2021, tr 71.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, NxB Chính trị Quốc gia Sự thật, HN, 2022, tr.82.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NxB Chính trị Quốc gia Sự thật, HN, 2021, tr 88.

[6] Sđd, tr 89.

[7] Sđd, tr 93.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, NxB Chính trị Quốc gia Sự thật, H 2022, tr.82.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, NxB Chính trị Quốc gia Sự thật, H 2022, tr.82.

[10] Sđd, tr.83.

[11] Sđd, tr.84.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NxB Chính trị Quốc gia Sự thật, HN, 2021, tr 95.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NxB Chính trị Quốc gia Sự thật, HN, 2021, tr 172,173.

Đại tá, TS Bùi Thanh Cao

Trưởng ban nghiên cứu Văn hóa học quân sự

Viện KHXH&NVQS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát...”[1] “Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…”[2]. Theo đó, nội dung phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn trong thực hiện dân chủ gồm các nội dung chủ yếu: bằng nghị quyết của tổ chức đảng; thông qua c&ocir

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn