Những quyết sách của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thể hiện tầm cao trí tuệ và trách nhiệm của Đảng đối với đất nước và dân tộc. Đó cũng là sự phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, vừa kế thừa những di sản truyền thống của dân tộc, vừa phát triển độc đáo sáng tạo với tinh thần tiến công liên tục, quyết thắng và chắc thắng.

Những quyết sách của Đảng trong đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Những quyết sách của Đảng trong đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Nhân dân Sài Gòn diễu hành mừng thành phố được giải phóng, ngày 15-5-1975, (Ảnh TTXVN)


1. Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký ngày 27-1-1973, điều 1 đã ghi rõ: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Giơnevơ năm một nghìn chín trăm năm mươi tư về Việt Nam đã công nhận”1. Các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam đã được Hiệp định Giơnevơ (7-1954) với sự tham gia của các nước lớn: Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô, Pháp, Trung Quốc công nhận. Đó là sự kiện lịch sử và pháp lý quốc tế rất quan trọng. Song, Mỹ đã phá hoại Hiệp định Giơnevơ, cùng chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, cự tuyệt hiệp thương Tổng quyển cử thống nhất nước Việt Nam, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo chống dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam ở cả hai miền Nam - Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã ngoan cường chống Mỹ xâm lược, buộc Mỹ ký Hiệp định Pari, rút hết quân đội viễn chinh về nước, công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam trên thực tế và pháp lý. Ngày 29-3-1973, quân đội Mỹ đã rút hết khỏi miền Nam Việt Nam.

Sau Hiệp định Pari, cục diện chính trị, quân sự ở miền Nam Việt Nam là tồn tại hai vùng với hai chính quyền quản lý: vùng thuộc chính quyền và quân đội Sài Gòn quản lý, vùng giải phóng do Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và quân giải phóng quản lý. Nhưng ngay sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực, chính quyền và quân đội Sài Gòn đã liên tiếp vi phạm Hiệp định, lấn chiếm vùng giải phóng, có nơi chúng thực hiện chiến dịch lớn tràn ngập lãnh thổ. Mỹ mặc dù đã rút hết quân đội về nước, vẫn tiếp tục ủng hộ, viện trợ cho chính quyền Sài Gòn hòng duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.

Trước âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn, Đảng cần có sự thống nhất nhận thức và xác định rõ hơn con đường phát triển và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. HNTƯ 21 khóa III đã họp (đợt 1 từ ngày 19-6 đến 6-7 và đợt 2 từ ngày 1-10 đến 4-10-1973) đề ra quyết sách chiến lược cho cách mạng miền Nam để đi tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bộ Chính trị đã có báo cáo quan trọng để hội nghị thảo luận và có quyết định cuối cùng.

HNTƯ 21 nêu rõ chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ và thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam trong 18 năm chống sự xâm lược tàn bạo của Mỹ với những bài học quan trọng. Trung ương Đảng tập trung làm rõ âm mưu của Mỹ và tay sai, so sánh lực lượng giữa ta và địch và khả năng phát triển của tình hình. Trung ương Đảng cho rằng, tình trạng nửa chiến tranh nửa hòa bình còn kéo dài và có thể phát triển theo hai khả năng: Một là, Hiệp định được thi hành từng bước, xung đột quân sự giảm dần, hòa bình được lập lại về cơ bản; đấu tranh chính trị ngày càng phát triển, cách mạng ở thế tiến lên mạnh mẽ. Hai là, địch gây chiến tranh trở lại, ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi. Khả năng này có thể xảy ra nếu Hiệp định tiếp tục bị vi phạm và phá hoại, xung đột quân sự phát triển, địch thấy lực lượng cách mạng không đủ mạnh, chúng có thể tiến hành phản công hòng giành thắng lợi quân sự, đẩy lực lượng vũ trang của ta ra khỏi miền Nam, xóa bỏ hẳn vai trò của chính quyền cách mạng. HNTƯ21 nhấn mạnh: “Trong mỗi khả năng phát triển của tình hình, sẽ còn có nhiều tình huống phức tạp. Song dù tình hình phát triển theo khả năng nào, con đường tiến lên giành thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ có thể là con đường bạo lực diễn ra dưới hình thức này hay hình thức khác. Ta phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó chắc thắng với khả năng xấu nhất là địch gây lại chiến tranh”2. Nghị quyết Hội nghị khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”3.

Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng nhấn mạnh phương hướng chủ động tích cực, có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng của cả nước là luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình và chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi hành Hiệp định để thắng địch. Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới. “Chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”4.

Phải nắm vững lực lượng vũ trang, phát triển và tăng cường ba thứ quân. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích phải luôn luôn chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng trong tư thế đánh địch, chủ động đập tan các cuộc hành quân lấn chiếm của chúng, kiên quyết tiến hành phản công và tiến công đánh những trận tiêu diệt thật đau, thật mạnh. Phải hết sức coi trọng nhiệm vụ bảo đảm hậu cần. Thực hiện hậu cần tại chỗ đồng thời tích cực xây dựng, phát triển và hoàn thiện các tuyến giao thông vận tải, bảo vệ hành lang và kho tàng, ra sức dự trữ lương thực, vũ khí, trang bị kỹ thuật, bảo đảm vật chất cho các lực lượng vũ trang trên các chiến trường.

“Phải tăng cường lãnh đạo tư tưởng mà nội dung chủ yếu là làm cho cán bộ, quân và dân thấu suốt một cách sâu sắc tình hình và nhiệm vụ, phương hướng, chủ trương, chính sách của Đảng trong giai đoạn mới, bồi dưỡng tinh thần cách mạng tiến công, kiên trì cách mạng, nâng cao cảnh giác. Chống mọi khuynh hướng hữu khuynh, hòa bình chủ nghĩa, có tư tưởng nghỉ ngơi, không sẵn sàng chiến đấu. Ra sức nâng cao công tác tổ chức của Đảng lên ngang tầm với nhiệm vụ chính trị trước mắt”5.

Nội dung Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng đã nhanh chóng được quán triệt trong toàn Đảng, đặc biệt với Trung ương Cục và các đảng bộ ở miền Nam. Kịp thời sửa chữa những biểu hiện hữu khuynh, bỏ chủ trương 5 cấm chỉ: cấm bao vây đồn bốt địch, cấm giữ đồn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích, cấm lập xã ấp chiến đấu. Khu ủy và Quân khu ủy Khu 9 do đồng chí Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh lãnh đạo từ tháng 4-1973 đã chủ trương chủ động tiến công địch. Các đồng chí đã nêu rõ quan điểm, nếu không đánh địch lấn chiếm để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả. Kinh nghiệm của quân và dân Khu 9 đã góp phần rất quan trọng để thúc đẩy cách mạng miền Nam phát triển mạnh từ nửa cuối 1973.

Giành thắng lợi hoàn toàn chỉ có thể dựa trên phát triển thực lực cách mạng. Cách mạng miền Nam phải chú trọng thực lực tại chỗ, đồng thời tăng cường sự chi viện về mọi mặt từ hậu phương lớn miền Bắc. Tháng 11-1973, Hội đồng Chính phủ đã phê duyệt hệ thống vận tải chiến lược Đông Trường Sơn để kịp thời vận chuyển chi viện cho mặt trận. Hơn 30.000 cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong được điều động vào tuyến đường Trường Sơn. Việc tuyển quân được đẩy mạnh. Hai năm 1973-1974, miền Bắc đã tăng viện vào miền Nam 263.691 cán bộ, chiến sĩ. Từ 1973 đến 1975, gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ.

Năm 1974, Quân giải phóng đẩy mạnh các cuộc tiến công chiến lược đánh nhiều trận tiêu diệt chủ lực quân đội Sài Gòn, đập tan hầu hết các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, mở rộng vùng giải phóng: Ngày 18-5-1974, tiêu diệt một tiểu đoàn biệt động quân đội Sài Gòn ở cụm cứ điểm Đắc Pét (Kon Tum); ngày 30-5-1974, diệt 1 tiểu đoàn địch ở Iaxúp (Buôn Ma Thuột). Ngày 18-7-1974, tiến công cụm cứ điểm Nông Sơn-Trung Phước (Quảng Nam) diệt 2 tiểu đoàn chủ lực quân đội Sài Gòn, giải phóng 13.000 dân. Đặc biệt ngày 7-8-1974, Quân giải phóng giành thắng lợi hoàn toàn làm chủ Chi khu quận lỵ Thượng Đức (Đại Lộc, Quảng Nam), diệt 1.600 tên, giải phóng 11.000 dân; tiếp đó đánh lui các đợt phản kích của quân đội Sài Gòn (kéo dài đến tháng 12-1974). Chiến thắng Thượng Đức tỏ rõ sức mạnh quân sự của Quân giải phóng và sự suy yếu của quân đội Sài Gòn, báo hiệu thời cơ mới để giành thắng lợi. Ngày 9-8-1974, Tổng thống Mỹ Nichxơn (Richard Nixon) buộc phải từ chức vì vụ bê bối Oatơghết (Watergate). Trước đó, ngày 4-7-1974, 400 người Mỹ biểu tình ở Oasinhtơn (Washington) giương cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đòi chính quyền Mỹ thi hành Hiệp định Pari.

 

 

2. Với sự phát triển mạnh mẽ trên chiến trường miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974 để bàn nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong 2 năm 1975-1976. Hội nghị tạm dừng ngày 8-10 để chờ Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng và các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam ra họp để có cơ sở quyết định sát hợp với diễn biến tình hình. Bộ Chính trị đã phân tích tình hình một cách khoa học đánh giá về so sánh lực lượng giữa ta và địch, vấn đề thời cơ và ý đồ, khả năng, vai trò của Mỹ. Bộ Chính trị chỉ rõ: “Tuy nói Mỹ phải ra vì thua, vì yếu, nhưng ta biết rằng Mỹ vẫn còn tiềm lực lớn và nhiều mưu đồ độc ác. Ta không bao giờ chủ quan mà cho rằng chúng đã “sức tàn lực kiệt”. Ta tuy thắng liên tiếp và đã mạnh lên, nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Đến lúc này, sự viện trợ của phe ta không phải đầy đủ và kịp thời như ta mong muốn… Trong hoàn cảnh đó, ta phải tạo ra một thế đi lên vững nhất, một thế thắng chắc nhất”6. “Đối với ta, điều quan trọng của Hiệp định Pari không phải là ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính phủ ba thành phần, mà mấu chốt là ở chỗ quân Mỹ phải ra còn quân ta thì ở lại, hành lang Nam Bắc vẫn nối liền, hậu phương gắn với tiền phương thành một dải liên hoàn thống nhất; thế trận tiến công của ta vẫn vững. Ý định của ta là giữ nguyên thế và lực của mình ở miền Nam để tiến lên tiếp tục tiến công địch”7.

 

Bộ Chính trị cho rằng, ký Hiệp định Pari, ta rất kiên quyết, nhưng cũng rất mềm dẻo, ta quyết giành thắng lợi cuối cùng nhưng biết thắng từng bước. Ở thời điểm cuối 1974, chúng ta đang có thời cơ, hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn. Mỹ đã thua, đang rút ra; lực lượng so sánh giữa ta và ngụy thì ta đang ở thế thắng, thế tiến lên; trái lại, vì thất bại liên tiếp thế và lực của ngụy, cả về chính trị và quân sự đang xuống dốc... đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn thành giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ… Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác”8. Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Thời cơ này đòi hỏi phải làm nhanh, làm gọn, làm triệt để, nhưng phải khôn khéo”9.

Bộ Chính trị đã thảo luận kỹ về khả năng, vai trò của Mỹ. Khi hạ quyết tâm chiến lược này, điều mấu chốt nhất phải cân nhắc là liệu Mỹ có trở lại miền Nam hay không? Bộ Chính trị cho rằng, tuy về bản chất Mỹ rất ngoan cố và còn nhiều âm mưu thâm độc, nhưng đây là lúc Mỹ đang ra, mà đã ra thì việc quay lại không phải dễ. Mỹ ngoan cố bám giữ miền Nam đến cùng là một việc, mà quay trở lại miền Nam một lần nữa là một việc khác. “Chọn thời cơ chiến lược lúc này, ta phán đoán Mỹ không có khả năng quay lại. Song ta cũng khẳng định, dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không xoay chuyển được tình thế, và ta vẫn thắng”10.

Đó là những phân tích, đánh giá rất thực tế và khoa học và quyết sách đúng đắn của ban lãnh đạo tối cao của Đảng. Vấn đề đặt ra là đánh như thế nào và thắng như thế nào cho tốt. Phải tạo sự bất ngờ để địch không kịp trở tay. Phải huy động sức mạnh cả ở tiền tuyến, cả ở hậu phương, sức mạnh của cả nước tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng.

Từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975, Bộ Chính trị họp đợt hai bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước và có quyết sách quan trọng. Ngày 7-1-1975, Bộ Chính trị kết luận: “Nhiệm vụ sắp tới của chúng ta là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì tất yếu sẽ đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”11. Nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể là thực hiện tiến công và nổi dậy trên quy mô lớn; Mở những chiến dịch hợp đồng binh chủng. Kết hợp tiến công vào quân chủ lực của ngụy với phá “bình định” nông thôn của chúng, phát triển phong trào đấu tranh chính trị trên quy mô rộng lớn. Đẩy mạnh công tác binh vận. Phá hủy cơ sở hậu cần và phương tiện chiến tranh của địch. Bộ Chính trị cũng đề ra kế hoạch tác chiến trên từng chiến trường: Nam Bộ, Khu V-Tây Nguyên, Trị-Thiên. Miền Bắc phải chi viện tối đa cho chiến trường miền Nam, đồng thời chủ động đối phó nếu Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá trở lại. Đó là kế hoạch tác chiến năm 1975, kế hoạch tiếp theo cho năm 1976 sẽ căn cứ kết quả năm 1975 để quyết định. Đó cũng là quyết sách của Bộ Chính trị quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976.

Chiến thắng Phước Long ngày 6-1-1975 của quân giải phóng cho thấy khả năng giải phóng miền Nam đã phát triển lớn hơn, nhanh hơn và đặt ra trực tiếp. Vấn đề đặt ra là Mỹ có khả năng quay lại hay can thiệp bằng không quân, hải quân cứu vãn chính quyền và quân đội Sài Gòn hay không? Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Matin, ngày 9-1-1975, đã báo cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu biết: Việc yểm trợ bằng máy bay của Mỹ lúc này chưa được phép.

Thực hiện những kết luận của Bộ Chính trị, ngày 9-1-1975, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã bàn và cụ thể hóa kế hoạch tác chiến chiến lược trong hai năm 1975-1976. Theo đó, mở đầu năm 1975, sẽ mở chiến dịch tiến công địch ở Tây Nguyên, hướng chính là Nam Tây Nguyên, mục tiêu chính là đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Trong chỉ đạo chiến tranh, việc chọn hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều đó được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thảo luận kỹ và quyết định. Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên được thành lập. Bộ Chính trị cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam vào chiến trường Tây Nguyên trực tiếp chỉ đạo. Ngày 17-2-1975, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Chỉ huy Chiến dịch Tây Nguyên thảo luận để thực hiện thắng lợi quyết định của Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương. Với sự chuẩn bị tốt nhất, 1 giờ 35 phút sáng 10-3-1975, Quân giải phóng tiến công Buôn Ma Thuột, 11 giờ ngày 11-3, giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột.

Trong ngày 11-3-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo diễn biến ở chiến trường Tây Nguyên và chiến thắng Buôn Ma Thuột. Phân tích tình hình địch và lực lượng cách mạng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cho rằng, ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Ngày 16-3, các đơn vị chủ lực quân đội Sài Gòn còn lại ở Plâyku và Kon Tum rút về đồng bằng ven biển theo đường số 7. Mệnh lệnh truy lích địch rút chạy được phát ra lúc 19 giờ. Cuộc truy kích địch diễn ra 8 ngày đêm, từ ngày 17 đến ngày 24-3 đã thắng lợi. Ngày 25-3-1975, Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng.

Ngay từ khi mở màn Chiến dịch Tây Nguyên, các chiến trường Nam Bộ và các tỉnh Trung và Nam Trung Bộ đã đẩy mạnh tiến công địch. Trước đó, ngày 8-2-1975, Bộ Chính trị đã ra quyết định thành lập Đảng ủy Mặt trận Trị-Thiên. Quân khu Trị-Thiên và Quân khu V phối hợp với Mặt trận Tây Nguyên. Kế hoạch chiến dịch tiến công giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ được quyết định và thực hiện. Ngày 21-3, mở màn chiến dịch giải phóng Huế; thành phố Huế được giải phóng 11 giờ 30 phút ngày 25-3-1975. Ngày 27-3-1975, lúc 18 giờ, Bộ Chính trị điện gửi đồng chí Võ Chí Công và đồng chí Chu Huy Mân về kế hoạch giải phóng Đà Nẵng, nêu rõ trong lúc này thời gian là lực lượng, phải hành động hết sức táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay. Cuộc tiến công giải phóng Đà Nẵng bắt đầu 5 giờ 30 phút ngày 28-3 đến 11 giờ ngày 29-3, Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng. Từ chiến thắng đó, quân và dân ta đẩy mạnh tiến công giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung.

Để huy động sức mạnh tối đa của cả nước cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập Hội đồng chi viện miền Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch.

3. Với đà thắng lợi ở Huế, Đà Nẵng và Trung Bộ, 16 giờ 30 phút ngày 29-3-1975, Bộ Chính trị điện gửi đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, về chia cắt và bao vây chiến lược phía Tây Sài Gòn, cần phải hành động kịp thời, kiên quyết và táo bạo. “Trên thực tế, có thể coi chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu từ đây”12. Chú trọng bao vây chiến lược phía Tây Sài Gòn, ở vùng Mỹ Tho, Tân An. Ngày 31-3, lúc 11 giờ, Bộ Chính trị điện gửi các đồng chí lãnh đạo có mặt ở chiến trường miền Nam về chuẩn bị gấp kế hoạch đánh chiếm Sài Gòn.

Ngày 1-4-1975, Bộ Chính trị gửi điện cho lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam về xúc tiến gấp kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn-Gia Định, lập Ban Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Sài Gòn. Bức điện nêu rõ: “Chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 35% sinh lực địch, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hai quân đoàn địch, tiêu diệt khoảng 40% các binh chủng kỹ thuật hiện đại, thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất hậu cần, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng số dân vùng giải phóng lên gần 8 triệu”13. Ta đã có sức mạnh áp đảo, địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu; cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”14. Như vậy, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã quyết định giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Với quyết sách chiến lược của Bộ Chính trị, ngày 7-4-1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, đã ra mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Ngày 9-4-1975, Bộ Chính trị điện gửi các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam và các đồng chí lãnh đạo đang ở chiến trường về kế hoạch tiến công Sài Gòn với tinh thần chuẩn bị tốt nhất trên tất cả các hướng bảo đảm toàn thắng. Từ chiến thắng trên các chiến trường, Bộ Chính trị đã họp ngày 14-4-1975 để nghe Quân ủy Trung ương báo cáo về tình hình Mặt trận Sài Gòn và các phương hướng, chủ trương đề ra. Bộ Chính trị nhất trí với phương hướng, chủ trương ấy. Bộ Chính trị đồng ý Chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”15.

Cùng với thất bại về quân sự, nội bộ chính quyền Sài Gòn bất ổn. Ngày 21-4-1975, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu đã phải từ chức. Ngày 22-4, điện của Bộ Chính trị nhấn mạnh việc nắm vững thời cơ, kịp thời phát động tổng tiến công và nổi dậy của quần chúng Sài Gòn-Gia Định. Bộ Chính trị nêu rõ: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất đề giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị… Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng”16. Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu ngày 26-4-1975 và thắng lợi hoàn toàn lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, thành phố Sài Gòn được giải phóng, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã toàn thắng. Ngày 30-4, Bộ Chính trị gửi điện: “Nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Sài Gòn-Gia Định, khen ngợi toàn thể cán bộ và chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên, thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội tinh nhuệ, dân quân tự vệ đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập chiến công chói lọi, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc ngụy quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn-Gia Định, đưa chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng”17.

Sự thống nhất cao độ giữa quyết sách của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh với hành động trên các chiến trường, từng mặt trận và chiến dịch đã tạo nên sức mạnh to lớn quyết định thắng lợi. Sự sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường thể hiện tài thao lược của các lãnh đạo, tướng lĩnh, chỉ huy bảo đảm hiện thực hóa những quyết định chiến lược của Đảng. Tập trung, thống nhất, trách nhiệm, kỷ luật, thần tốc, táo bạo là nét nổi bật trong sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm giành thắng lợi cuối cùng. 

 

 

 

 

 

1. Bộ Ngoại giao: Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2004, tr. 481

 

2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T. 34, tr. 160, 232, 239, 258

6, 7, 8, 9, 10, 11. Sđd, T.35, tr. 176, 176-177, 178-179, 179, 179, 192

12, 13, 14, 15, 16, 17. Sđd, T. 36, tr. 91, 94-95, 95-96, 109, 167, 177-178.

 

PGS, TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC

 

Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nhân dân Sài Gòn diễu hành mừng thành phố được giải phóng, ngày 15-5-1975, (Ảnh TTXVN) 1. Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký ngày 27-1-1973, điều 1 đã ghi rõ: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Giơnevơ năm một nghìn chín trăm năm mươi tư về Việt Nam đã công nhận”1. Các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam đã được Hiệp định Giơnevơ (7-1954) với sự tham gia của các nước lớn: Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô, Pháp, Trung Quốc công nhận. Đó là sự kiện lịch sử và pháp lý quốc tế rất quan trọng. Song, Mỹ đã phá hoại Hiệp định Giơnevơ, cùng chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam thực

Tin khác cùng chủ đề

Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Tinh thần quyết chiến quyết thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc
Nghệ thuật tác chiến phòng không trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Gửi bình luận của bạn