Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, đào tạo họ trở thành những người phát triển toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Những phẩm chất đó được Người khái quát ngắn gọn trong hai chữ “đức” và “tài”. Đây là chuẩn mực để mỗi cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, đồng thời là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá, sử dụng cán bộ của Đảng.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đạo đức cách mạng và năng lực trình độ của cán bộ, đảng viên
Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đạo đức cách mạng và năng lực trình độ của cán bộ, đảng viên

1. Đạo đức là “nền tảng”, là "cái gốc" của người cách mạng.

So với các lãnh tụ cách mạng trên thế giới và trong khu vực, Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, lối sống của con người và xã hội. Đức của người cán bộ, đảng viên theo Người là “đạo đức cách mạng”, là đạo đức hướng tới mục tiêu lí tưởng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Nó được nảy sinh và phát triển trong cuộc đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ của nhân dân ta.

Qua nghiên cứu các bài viết, bài nói của Người, từ bài giảng đầu tiên trong "Đường cách mệnh" đến bản "Di chúc" cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức là “nền tảng”, là "cái gốc" của người cách mạng. Do vậy, tư tưởng đạo đức của Người rất sâu sắc, phong phú cả về lí luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vô giá của văn hoá dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đức của người cán bộ cách mạng thể hiện ở phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, là lòng trung thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ Xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó. Đức được thể hiện ở sự trong sáng, thành thật, trung thực, không cơ hội, thật sự Cần - Kiệm - Liêm - Chính, chí công vô tư, biết hy sinh lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích tập thể, lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Đức là cái gốc giúp người cán bộ cách mạng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nước thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [1]. Người coi bốn đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” là những đức tính của người cán bộ cách mạng, cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Đạo đức cách mạng tạo nên uy tín của cán bộ, đảng viên. Đó là cơ sở để giáo dục, thuyết phục và lãnh đạo quần chúng nhân dân, là tấm gương sáng cho mọi người noi theo.

Xây dựng và phát triển đạo đức là nhu cầu tất yếu khách quan của bất cứ xã hội nào, bởi đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội cũng như đời sống của mỗi cá nhân. Nó thể hiện một cách sâu sắc nhất tính nhân văn, nhân đạo, nhân bản của mỗi xã hội và mỗi con người. Thực tiễn lịch sử cho thấy, khi con người được soi sáng bởi một lý tưởng đạo đức tiến bộ, khi sự hiểu biết về cái thiện, cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ của họ càng được nâng cao thì hoạt động của họ càng hướng tới phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội. Vì vậy từ xưa tới nay, các giai cấp, các dân tộc, các thủ lĩnh, các lãnh tụ...ở các thời đại đều hết sức quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mỗi thành viên trong cộng đồng, hướng họ tới những việc làm có ích cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Tiếp nối truyền thống coi trọng đạo đức của dân tộc Việt Nam và tiếp thu những tinh hoa đạo đức nhân loại, đồng thời căn cứ vào thực tiễn cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh hết sức chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đạo đức mới - đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam.

Trong những năm miền Bắc khôi phục kinh tế, văn hoá xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa xã hội, tâm trạng thời bình, biểu hiện suy thoái và cá nhân chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ đảng viên đã không dừng lại ở hiện tượng đơn lẻ, đó đã là căn bệnh, trở thành nguy cơ của một Đảng cầm quyền. Nhận thức rõ những gian nan, trắc trở, những khó khăn phức tạp của chặng đường trước mắt. Vào tháng 12 - 1958, dưới bút danh Trần Lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Ðạo đức cách mạng” chỉ rõ kẻ thù, những nguy cơ của đạo đức cách mạng, đồng thời nêu rõ những biện pháp để ngăn ngừa và sửa chữa căn bệnh đó.

Nhận thức rõ tính chất quyết liệt, cam go của cuộc đấu tranh giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Vì vậy người cách mạng cần phải có đạo đức cách mạng, vì “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[2]. Đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, Người nhấn mạnh: Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước, vì lợi ích chung mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình, thậm chí sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình và “đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”[3]. Đạo đức cách mạng giúp mỗi người khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không lo kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá,v,v...

Ảnh minh họa

Theo Người, đạo đức cách mạng là: “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Ðảng, cho cách mạng. Ðó là điều chủ chốt nhất”[4]. Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, đoàn kết chặt chẽ với nông dân, trí thức và toàn dân tộc,  ngoài lợi ích của giai cấp và dân tộc. Ðạo đức cách mạng là phải thực hiện được các mục tiêu của Ðảng, phải hoàn thành một cách xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

Ðạo đức cách mạng là, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không cúi đầu. Người chỉ rõ có ba kẻ địch luôn chống lại chúng ta, đó là: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc; thói quen và truyền thống lạc hậu và chủ nghĩa cá nhân. Ðạo đức cách mạng là phải luôn luôn thực hiện "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải biết hy sinh cho sự nghiệp của Ðảng, của Tổ quốc và của dân tộc, phải gắn bó máu thịt với nhân dân, tin dân, dựa vào lực lượng vô địch của nhân dân để lãnh đạo nhân dân chống lại mọi kẻ thù xâm lược, đói nghèo và lạc hậu.

Cuối cùng, Người khẳng định:  "Ðạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"[5].

Tài của người cán bộ được thể hiện ở trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, khả năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc; luôn làm chủ được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chuyên môn của mình. Người có tài luôn luôn có óc tìm tòi, sáng tạo cái mới, thường am hiểu lý thuyết chuyên sâu về một lĩnh vực và có năng lực thực hành giỏi.

Nhiều lần, Người nói “trọng dụng nhân tài” hay “Trong Đảng ta gồm những người có tài, có đức” và “Phải trọng dụng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”... Theo Người: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn”, “chính trị là đức, chuyên môn là tài”[6].

Tài còn là khả năng hoạt động thực tiễn, kỹ năng và hiệu quả thực hành các công việc được giao. Dù hoạt động trên bất kỳ lĩnh vực nào thì người có tài phải là người có sự hiểu biết thấu đáo và thực hành thành thạo các công việc mà mình đảm nhiệm. Người chỉ rõ: “Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thành thạo về chính trị mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”[7]. Tài của người cán bộ phải được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc, vì thế phải tìm chọn cán bộ có tài và bố trí phù hợp với yêu cầu sử dụng của từng nhiệm vụ. Người căn dặn: “Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người”[8]. Người còn nói: “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ hóa tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ”[9].

Trong Chỉ thị “Tìm người tài đức”, ngày 20-11-1946, Người đã kêu gọi: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”, Người tha thiết cầu hiền tài ra giúp nước và thực sự cầu thị khi tự nhận khuyết điểm: “E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó, tôi xin thừa nhận”[10]. Bác yêu cầu: “Các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”[11].

Là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, với một trí tuệ tuyệt vời, chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn ai hết, hiểu rõ vị trí của cái tài trong hoạt động giúp ích cho xã hội của mỗi người. Không có tài năng thì mọi nguyện vọng tốt đẹp chỉ là mong muốn, không thể biến thành hiện thực. Nhưng đối với chủ tịch Hồ Chí Minh, tài bao giờ cũng phải đi đôi với đức.

2. Mối quan hệ giữa đạo đức cách mạng và năng lực trình độ của cán bộ, đảng viên

Tài và đức của người cán bộ, đảng viên là hai mặt không tách rời mà hoà quyện với nhau, là cơ sở, điều kiện, tiền đề của nhau, thúc đẩy lẫn nhau để hoàn thiện hình thành nhân cách người cán bộ cách mạng.

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cấu trúc nhân cách con người bao gồm hai mặt: đạo đức và tài năng, phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, trong đó, Người xác định đạo đức, phẩm chất, hồng là gốc, là nền tảng, nhưng điều đó không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Nói đức làm gốc nghĩa là Người muốn nhấn mạnh vị trí của đạo đức trong chỉnh thể thống nhất đức - tài, đây là sự thống nhất biện chứng với nhau trong mối quan hệ giữa đạo đức cách mạng và năng lực trình độ của cán bộ, đảng viên.

Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn phong phú về mối quan hệ giữa tài và đức trong việc giáo dục, đào tạo, rèn luyện và sử dụng con người. Luôn gắn tài với đức, Người thường dùng từ ghép: “bậc tài đức”, “kẻ hiền năng”, “tài khác nhau nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”. Giữa tài và đức theo Hồ Chí Minh, đức là gốc, là nền tảng. “Có tài phải có đức, tham ô, hủ hóa có hại cho nước”[12]. “Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa”[13]. Còn người “có đức  không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”[14].

 Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa “chính trị và chuyên môn”, giữa “hồng và chuyên” cũng là mối quan hệ giữa đức và tài. Người cho rằng: chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước, rồi có chuyên môn”. “Chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng”[15].

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có đức phải có tài, nếu không sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có hại cho dân. Người cán bộ cách mạng cần có phẩm chất đạo đức tốt nhưng đồng thời phải có tài. Có tài mà thiếu đức thường gây ra những tác hại không nhỏ. Trong Di chúc, trước khi ra đi Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”[16].

Đề cao đạo đức trong mối quan hệ đức - tài, song Hồ Chí Minh cũng luôn khẳng định, khi mối quan hệ đó phát triển đến mức cao, thì tài và đức hòa vào nhau làm một, tài trở thành đức. Những người có tài năng giỏi mà đem tài năng đó cống hiến cho xã hội, góp phần làm cho xã hội phát triển thì tài ấy là đức.

Đức không phải là cái mang tính bẩm sinh, mà phải luôn được trau dồi qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày, qua hoạt động thực tiễn. Đức là cái nền cho tài năng nảy nở và phát triển. Với quan niệm nhất quán đó về mối quan hệ đức - tài, khi nói về công tác lựa chọn và sử dụng nhân tài, Hồ Chí Minh cho rằng việc đề ra tiêu chuẩn cán bộ không được dựa trên ý muốn chủ quan của mình, mà phải xuất phát từ thực tiễn, từ những yêu cầu của cách mạng. Tiêu chuẩn chung nhất mà người cán bộ phải có là phẩm chất chính trị và năng lực lãnh đạo mà Người thường gọi là đức và tài. Giữa đức và tài, Người thường nêu đức trước rồi đến tài.

Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra những tiêu chuẩn chung nhất trong việc lựa chọn nhân tài, lựa chọn cán bộ mà Người còn nêu lên những tiêu chuẩn riêng cho cán bộ ở từng ngành. Mỗi cán bộ dù làm công tác gì, ở cương vị nào cũng đều có thể tìm thấy những tiêu chuẩn để tu dưỡng rèn luyện để phấn đấu vươn lên. Qua thực tiễn cách mạng và kinh nghiệm công tác của mình, Người yêu cầu phải khéo dùng cán bộ, đặt người đúng việc, vì việc mà đặt người, chứ không phải vì người mà đặt việc. “Người đời ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”[17].

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đức - Tài của người cán bộ là di huấn vô giá Người để lại cho Đảng và nhân dân ta về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới. Đánh giá đúng, sử dụng đúng tài, đức của cán bộ, coi: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[18], làm tốt vấn đề tổ chức cán bộ, đó cũng là công việc gốc để đưa đất nước tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ rằng: “Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa”[19].

Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp. Đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, phải đối mặt với mặt trái của kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “Diễn biến hoà bình”…  Tình hình đó đã làm cho xã hội và trong Đảng, trong bộ máy của hệ thống chính trị nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Đặc biệt là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cấp cao mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra. Những hiện tượng suy thoái trong Đảng do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do sự yếu kém về tu dưỡng, rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân.

Như vậy, vấn đề tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay đã thực sự trở thành vấn đề trung tâm của công tác xây dựng Đảng. Vì vậy, để tạo được sự chuyển biến thật sự mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng nói chung và phẩm chất của cán bộ, đảng viên nói riêng, toàn Đảng phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức, vừa có tài theo quan điểm của Hồ Chí Minh. Từ đó ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

 Vấn đề đào tạo, sử dụng, đánh giá cán bộ phải được gắn với đức - tài một cách khoa học, đầy đủ. Đức và tài của người cán bộ hiện nay cần phải cụ thể hoá bằng tiêu chuẩn chức danh đối với mỗi chức vụ, cương vị công tác, nhất là các tiêu chí mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Đức và tài của người cán bộ đạt đến trình độ nào thì phải lựa chọn bố trí họ ở cấp và vị trí tương xứng. Nhưng vấn đề có tính nguyên tắc cần khẳng định là, đã là người cán bộ cách mạng thì phải có đủ đức, đủ tài tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ, không thể châm chước bất cứ một tiêu chuẩn nào. Nếu quan điểm đức-tài không rõ ràng, lẫn lộn, chỉ nhìn hình thức bề ngoài mà không thấy bản chất bên trong của con người thì kết quả là sẽ chọn ra những kẻ bất tài, vô dụng, làm hại đến sự nghiệp cách mạng.

Hội thảo khoa học quốc gia về xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

3. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Để nâng cao đạo  đức cách mạng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay vừa có đức, vừa có tài theo quan điểm của Hồ Chí Minh cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn- nghiệp vụ, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách chặt chẽ, thiết thực, hiệu quả. Đặc biệt là quán triệt, tập trung làm tốt ba nội dung: “Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên” theo Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".

Ba là, cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".

Bốn là, tiến hành thường xuyên việc rèn luyện cán bộ, đảng viên trong hoạt động thực tiễn. Kết quả hoạt động thực tiễn là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Qua hoạt động thực tiễn, tiếp xúc với công việc, với quần chúng… cán bộ, đảng viên có điều kiện rèn luyện để trưởng thành; cũng qua hoạt động thực tiễn, những  khuyết, nhược điểm của cán bộ, đảng viên sẽ bộc lộ để được giúp đỡ sửa chữa tiến bộ.

Năm là, các tổ chức đảng tăng cường hơn nữa công tác quản lý cán bộ, đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống. Làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên vừa có đức, vừa có tài theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay sẽ tạo được sự chuyển biến thực sự trong Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

Hoàng Bắc Lĩnh


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập , Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 292.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 601.  

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 602.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 603.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 612.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 269.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 69.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 314.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 320.

[10], 4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 504.

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 345, 346.

[13], 3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 172.

4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 269.

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 622.

[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 88.

[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 309.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011,tr. 125. 

 

1. Đạo đức là “nền tảng”, là "cái gốc" của người cách mạng. So với các lãnh tụ cách mạng trên thế giới và trong khu vực, Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, lối sống của con người và xã hội. Đức của người cán bộ, đảng viên theo Người là “đạo đức cách mạng”, là đạo đức hướng tới mục tiêu lí tưởng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Nó được nảy sinh và phát triển trong cuộc đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ của nhân dân ta. Qua nghiên cứu các bài viết, bài nói của Người, từ bài giảng đầu tiên trong "Đường cách mệnh" đến bản "Di chúc" cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức l&ag

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị

Gửi bình luận của bạn