Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, coi đây là điều kiện tiền đề, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới cũng như sự tồn vong của chế độ XHCN. Cùng với sự phát triển của thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức lý luận và thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng đầy đủ, toàn diện, phong phú, đã đạt những kết quả, thành tựu quan trọng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý trong lịch sử xây dựng Đảng.

Công tác xây dựng đảng thời kỳ đổi mới (1986-2021) - Thành tựu và bài học kinh nghiệm
Công tác xây dựng đảng thời kỳ đổi mới (1986-2021) - Thành tựu và bài học kinh nghiệm
1. Nhận thức và quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Đảng
Trước những yêu cầu cấp bách của tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, trên cơ sở kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, từ Đại hội VI của Đảng đến nay, Đảng đề ra và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước; đồng thời Đảng đề ra những quan điểm, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng nhiệm kỳ đại hội Đảng.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, vượt qua những khó khăn, nguy cơ, thách thức, ngay từ Đại hội VI (1986), cùng với việc đề ra đường lối đổi mới, Đảng đã khẳng định phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN, “Đảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Đảng phải chăm lo xây dựng mình vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, để từ đó tác động quyết định đến sự phát triển của cách mạng nước ta”1.
Tiếp đến, Đại hội VII (1991) của Đảng chỉ rõ, để lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới cũng như toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn để có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu mới, khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực và các mặt yếu kém, khôi phục và nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân. “Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”2.
Đại hội VIII (1996) của Đảng xác định “lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Coi trọng tổng kết công tác xây dựng Đảng. Củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ. Tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng”3. Ngăn chặn khuynh hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng nhấn mạnh, với vai trò, trách nhiệm của một đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng. Vì vậy, trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng phải nghiêm túc xem xét những sai lầm, khuyết điểm, yếu kém, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng.
Đại hội IX (2001) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng”4. Đại hội đề ra 4 nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng Đảng là: Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng; kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Ðại hội X (2006) của Đảng có ý nghĩa trọng đại, đánh dấu giai đoạn mới, bên cạnh những cơ hội lớn, đất nước và Ðảng cũng đối mặt với những khó khăn, thách thức gay gắt. Trước tình hình đó, xây dựng Ðảng với vai trò là nhiệm vụ then chốt càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng. Đại hội X chỉ rõ trong những năm tới, “phải dành nhiều công sức tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực”5. Đại hội đề ra 5 nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có 2 giải pháp mới so với Đại hội IX của Đảng, đó là: Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Đại hội XI (2011) của Đảng đề ra 8 nhiệm vụ, giải pháp tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trong đó có một số giải pháp mới so với các Đại hội trước như: Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận; tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị (HTCT); đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI về công tác xây dựng Đảng, HNTƯ 4 khóa XI đã ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện NQTƯ 4 một cách bài bản, quyết liệt và đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng, tạo chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái trong Đảng.
Trên tinh thần đó, Đại hội XII (2016) của Đảng chỉ rõ: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”6. Đại hội đề ra 8 nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó tiếp tục kế thừa một số nhiệm vụ, giải pháp đã được đề ra tại các đại hội trước đó và nhấn mạnh một số yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp mới là: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Một trong những yêu cầu mới đặt ra tại Đại hội là tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức, nội dung, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền.
Trên cơ sở tổng kết 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, kiểm điểm sâu sắc, toàn diện công tác xây dựng Đảng và sự lãnh đạo, chỉ đạo của BCHTƯ Đảng khóa XII; xác định phương hưởng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ mới, Đại hội XIII (2021) của Đảng một lần nữa khẳng định: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng”7. Đại hội đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có một số yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp mới là: Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức; đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT; tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu; thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Có thể nói, cùng với việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đảng đã đề ra những quan điểm, chủ trương, giải pháp hết sức đúng đắn, toàn diện và kịp thời nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng8, để Đảng đủ khả năng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới giành nhiều thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng.
 
2. Kết quả, thành tựu xây dựng Đảng qua 35 năm đổi mới
Sau 35 năm đổi mới, công tác xây dựng Đảng của Đảng đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu to lớn, toàn diện, nổi bật, trong đó nhiều mặt có chuyển biến sâu sắc, bước đầu có thể tổng kết, đánh giá trên một số phương diện chủ yếu:
 Thành tựu tổng quát, nổi bật trong xây dựng Đảng về chính trị đó là Đảng đã kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra và kiên định, quyết tâm lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước.
Nội dung của đường lối đổi mới được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. BCHTƯ và Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã cụ thể hóa và phát triển Cương lĩnh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các nghị quyết Ðại hội, các nghị quyết HNTƯ... trong đó xác định Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Ðảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân của Ðảng đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả. Ðảng và Nhà nước tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý đất nước trong điều kiện mới.
Việc tổ chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng qua các kỳ đại hội được đặc biệt coi trọng, với nhiều cách làm bài bản, chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng đã tạo nên những thắng lợi và thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, đưa thế và lực của nước ta nâng lên nhiều lần so với trước đổi mới. Uy tín chính trị của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với các đảng chính trị, đảng cánh tả và bạn bè quốc tế được củng cố, tăng cường và ngày càng mở rộng, nâng cao. Vị thế, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ngày càng được củng cố vững chắc. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”9.
Thành tựu nổi bật trong xây dựng Đảng về tư tưởng là Đảng tiếp tục xác lập, củng cố và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng thống nhất trong toàn Đảng và toàn xã hội, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước được quán triệt trong toàn Đảng, hệ thống chính trị.
Công tác tư tưởng luôn được coi trọng và tăng cường, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, khẳng định và bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, giữ gìn, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội; gắn kết chặt chẽ hơn với những nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lại các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị vu cáo Đảng, Nhà nước ngày càng được đẩy mạnh, có hiệu quả thiết thực.
Công tác lý luận của Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển. Đảng luôn chú trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Đã bước đầu hình thành hệ thống lý luận cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam (về bản chất, đặc trưng của CNXH; các định hướng cơ bản xây dựng CNXH; về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; về phát huy dân chủ, xây dựng HTCT, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; xây dựng, chỉnh đốn Đảng...). Những kết quả và thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước, từng bước đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội, tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, phấn đấu tạo nền tảng để cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Công tác xây dựng Đảng về đạo đức đạt được những kết quả quan trọng, được thể hiện trên nhiều phương diện.
Trước hết là hệ thống chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng ngày càng được xác định rõ theo tư tưởng Hồ Chí Minh; đó là: Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng. Các tiêu chuẩn cụ thể của đạo đức cách mạng được nhấn mạnh là: không cá nhân chủ nghĩa, quan liêu, xa rời quần chúng; không tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; không cơ hội, lạm dụng chức vụ để vụ lợi cá nhân, lợi ích nhóm; không chạy chức, chạy quyền; không sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội... Cùng với những chuẩn mực chung, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực, các địa phương, cơ quan, đơn vị đã cụ thể hóa thành những tiêu chuẩn đạo đức một cách phù hợp.
Công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên được thực hiện thường xuyên trong hệ thống các trường Đảng, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên cũng như trong các sinh hoạt chính trị, sinh hoạt đảng thường kỳ. Đảng đã liên tiếp ban hành các quy định, chỉ thị về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh10, từ cuộc vận động đến coi đây là công việc thường ngày, là trách nhiệm cụ thể thiết thân của mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân; đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào sinh hoạt thường xuyên của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chương trình hành động của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; lấy kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm. Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị xác định việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Ngày 30-10-2018, BCHTƯ Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, xác định rõ 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Cùng với các chỉ thị, quy định trên, Đảng đã ban hành nhiều văn bản về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng11. Công tác xây dựng Đảng về đạo đức đã được đặt ngang hàng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ.
Công tác xây dựng Đảng về tổ chức và xây dựng hệ thống chính trị được coi trọng, đạt nhiều kết quả tích cực.
Trong những năm đổi mới, Đảng đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và HTCT, đạt được nhiều kết quả quan trọng12. Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. HTCT ổn định, phù hợp với Cương lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng13, việc phát triển và nâng cao chất lượng đảng viên14 đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo thực hiện, nhất là đối với những tổ chức cơ sở đảng yếu kém, có nhiều khó khăn, những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; thu hẹp đáng kể tình trạng chi bộ sinh hoạt ghép hoặc chưa có chi bộ ở các thôn, ấp, bản, làng. Số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên, nữ, trí thức, học sinh, sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh tế và chủ doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng. Tuổi bình quân kết nạp đảng cũng ngày càng trẻ hơn so với trước.
Công tác xây dựng Đảng về cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ đạt những kết quả nổi bật
Sau hơn 20 năm thực hiện NQTƯ 3 khoá VIII về “Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp” có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc (ĐLDT) và CNXH, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị và sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế để tổ chức thực hiện15. Các quy trình công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khoa học và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được quan tâm, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ. Chủ trương luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương đạt được kết quả bước đầu. Những nhiệm kỳ gần đây đã tiến hành xây dựng quy hoạch BCHTƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định và thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt. Việc thực hiện chính sách cán bộ trong HTCT tiếp tục được quan tâm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện có hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng cường.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên.
Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là ở cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Các quy định, quy chế, hướng dẫn về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được sửa đổi, bổ sung, ban hành bảo đảm đồng bộ, thống nhất và chặt chẽ hơn, xác định rõ hơn nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát làm cơ sở để xem xét, đánh giá, kết luận, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân vi phạm và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tiêu cực, những nơi có vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội và kịp thời kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, dư luận quan tâm đã được xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được nhiều cấp ủy quan tâm chỉ đạo, giải quyết kịp thời, đúng quy định, trong đó có một số vụ tồn đọng, kéo dài, được giải quyết dứt điểm. Sự phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả hơn, hạn chế sự chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý để đề xuất bổ sung, sửa đổi các văn bản có liên quan cho phù hợp. Việc công khai kết luận kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có tác động tích cực, góp phần giáo dục cán bộ, đảng viên, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối vổi tổ chức đảng, đảng viên đạt kết quả khá toàn diện16.
Công tác dân vận được toàn Đảng và hệ thống chính trị chú trọng, tiếp tục có nhiều đổi mới theo hướng đồng bộ, tạo chuyển biến tích cực.
Quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và HTCT đối với việc chăm lo đời sống nhân dân được nâng cao; việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân được quan tâm thực hiện tốt hơn, góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Trung ương Đảng đã tổng kết, sơ kết, ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết17 và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, nhất là đối với những địa bàn, lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, những nơi xảy ra điểm nóng, khiếu kiện kéo dài, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Công tác dân vận của HTCT18, nhất là dân vận chính quyền được đẩy mạnh và thực hiện khá đồng bộ ở các cấp, các ngành, tạo chuyển biến về nhận thức và nâng cao trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức. Chính phủ đã xây dựng, vận hành hệ thống tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của nhân dân và doanh nghiệp. Nhiều địa phương đã công khai đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý kiến nghị của nhân dân. Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được mở rộng về phạm vi và đối tượng, trở thành hoạt động thường xuyên và có hiệu quả. Công tác tiếp dân và đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền từng bước đi vào nền nếp. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp và nhân dân theo các quyết định của Bộ Chính trị19 được đẩy mạnh và có chuyển biến tích cực.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với HTCT tiếp tục được đổi mới toàn diện, phát huy được vai trò, trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong HTCT.
Các cấp ủy Đảng đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong HTCT, nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; nói đi đôi với làm. Có những đổi mới trong việc ra nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong Đảng theo hướng giảm bớt thủ tục, giấy tờ, hội họp.
Với những kết quả quan trọng nêu trên, Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo, bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng ĐLDT và CNXH, kiên định đường lối đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền, lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước.
 
3. Một số bài học kinh nghiệm
Thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua 35 năm đổi mới rất phong phú, sinh động, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý có thể đúc rút, bổ sung, phát triển lý luận về Đảng và xây dựng Đảng.
Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo chưa có tiền lệ, diễn ra trong bối cảnh trong nước và đặc biệt là quốc tế có nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp, khó lường, hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực thù địch chống phá quyết liệt, xuất phát điểm đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của Việt Nam thấp. Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội”20. Chỉ có giữ vững bản lĩnh chính trị, kiện định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có các quan điểm, tư tưởng về xây dựng Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam mới giữ vững vai trò lãnh đạo, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, đủ khả năng lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hai là, kiên định và thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng. Tập trung dân chủ; tự phê bình và phê bình; đoàn kết thống nhất; gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như thực tiễn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản, trụ cột trong tổ chức và hoạt động của đảng cộng sản, xa rời nguyên tắc này là từ bỏ bản chất, sức mạnh tổ chức của Đảng. Cùng với đó, đoàn kết thống nhất là sức mạnh nội sinh, vô địch của Đảng. Chỉ có sự đoàn kết, thống nhất ý chí trong toàn Đảng thì Đảng mới đề ra được đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo; mới tạo được sự đoàn kết, thống nhất và đồng thuận trong toàn xã hội. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Thường xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào dân để xây dựng Đảng là cội nguồn sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi. Hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là chìa khóa của thành công.
Ba là, đặc biệt coi trọng công tác cán bộ, thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng, nhân tố quyết định thành bại của cách mạng. Thực tiễn tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những chủ trương, nghị quyết, quy định về xây dựng Đảng đều cho thấy cán bộ là gốc của mọi công việc, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có được thực hiện hiệu quả, thành công hay không, đều phụ thuộc vào tinh thần, thái độ và ý thức trách nhiệm của cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và nhân dân; đồng thời phải phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, đề cao trách nhiệm cá nhân, gắn kết quả thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về xây dựng Đảng.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng với nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Kiên định thực hiện quan điểm phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên cũng chính là kinh nghiệm giải quyết các mối quan hệ lớn giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng với việc thực hiện các nhiệm vụ trung tâm, nhiệm vụ chiến lược khác. Các nhiệm vụ đó có quan hệ mật thiết, là cơ sở tiền đề, hỗ trợ đắc lực lẫn nhau. Trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, cấp bách; đồng thời, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá.
Năm là, có quyết tâm chính trị cao, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo và tăng cường kiểm tra, giám sát. Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo công cuộc đổi mới chưa có tiền lệ, nhiều vấn đề mới và khó khăn, thách thức đặt ra, nếu không có bản lĩnh và quyết tâm chính trị cao, khó có thể đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy, trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, toàn Đảng phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, phương pháp, cách làm đúng đắn, bài bản, dân chủ, chắc chắn và có bước đi phù hợp; kiên trì, cầu thị, lắng nghe; không cầu toàn, nhưng cũng không chủ quan nóng vội, mất cảnh giác và không tự mãn với thành tích đạt được. Đối với những việc mới, khó, phức tạp thì tiến hành thí điểm, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, tìm ra cách làm phù hợp, hiệu quả nhất để nhân rộng. Trong quá trình tổ chức thực hiện, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém, lệch lạc, phát huy những ưu điểm, nhân tố tích cực, đổi mới sáng tạo, nhân rộng điển hình tiên tiến.

Với “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” của đất nước sau 35 năm đổi mới, cùng những thành tựu và kinh nghiệm quý báu trong công tác xây dựng Đảng thời kỳ đổi mới, đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước... Dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, thống nhất, trí tuệ, dân chủ-kỷ cương, lòng yêu nước, ý thức tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, tính năng động, chủ động, sáng tạo của con người Việt Nam được phát huy và nâng cao. Trong toàn xã hội, tư tưởng tích cực được mở rộng, là xu hướng chủ đạo, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc trong thời kỳ mới.

 PGS, TS DƯƠNG TRUNG Ý
Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 
Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 2/2022
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T.47, tr. 458
2. Sđd, 2007, T.50, tr. 502, 503
3. Sđd, 2015, T.55, tr. 362
4. Sđd, 2016, T.60, tr. 221
5. Sđd, 2018, T.65, tr. 223
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQGST, H, 2016, tr.198, 199
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T.I, tr.118-119
8.  Cùng với các chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng được đề ra trong các văn kiện Đại hội, BCHTƯ các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề, kết luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng như: Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 20-6-1988 của BCHTƯ Đảng khoá VI “về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng”; Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 26-6-1992 của BCHTƯ Đảng khoá VII “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999 Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) BCHTƯ Đảng khoá VIII “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012 của BCHTƯ Đảng khóa XI “Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết số 04/NQ-TW, ngày 30-10-2016 của BCHTƯ Đảng khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021 của BCHTƯ Đảng khoá XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T.I, tr.104
10. Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 7-11-2006 của Bộ Chính trị khóa X về “Tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng và toàn dân; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính “Về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
11. Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, trong đó có nhiều nội dung nêu gương về đạo đức; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-20218 của BCHTƯ về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”
12. Nghị quyết số 08-NQ/HNTW, ngày 23-1-1995 của BCHTƯ Đảng khoá VII về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”; Nghị quyết 13-NQ/TW, ngày 16-8-1999 của BCHTƯ Đảng khóa VIII “Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị”; Kết luận số 15-KL/TW, ngày 26-7-2002 của BCHTƯ Đảng khoá IX về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII về công tác tổ chức và cán bộ”; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của BCHTƯ Đảng khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của BCHTƯ Đảng khóa XII về “Tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”
13. Tính đến ngày 30-9-2020, toàn Đảng có 52.125 tổ chức cơ sở đảng (24.788 đảng bộ cơ sở, 27.337 chi bộ cơ sở), giảm 4.951 tổ chức cơ sở đảng so với đầu nhiệm kỳ; trực thuộc đảng ủy cơ sở có 2.487 đảng bộ bộ phận và 227.328 chi bộ với 5.192.533 đảng viên, tăng 568.638 đảng viên so với đầu nhiệm kỳ. Dẫn theo: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T.II, tr 185
14. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến ngày 30-9-2020, đã kết nạp được 880.155 đảng viên, bình quân 185.259 đảng viên/năm. Trình độ đảng viên mới kết nạp được nâng lên (41,5% từ đại học trở lên, 3% là thạc sĩ, 0,15% là tiến sĩ), cơ cấu hợp lý theo hướng trẻ hóa và tăng tỷ lệ nữ (67,67% là đoàn viên, 43,72% là nữ). Dẫn theo: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T.II, tr 188
15. Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 18-6-1997 của BCHTƯ Đảng khoá VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận số 15-KL/TW, ngày 26-7-2002 của Hội nghị lần thứ sáu BCHTƯ Đảng khoá IX về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII về công tác tổ chức và cán bộ”; Kết luận số 37-KL/TW, ngày 2-2-2009 của Hội nghị lần thứ chín BCHTƯ Đảng (khóa X) về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của BCHTƯ Đảng khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” và nhiều quy chế, quy định khác về công tác cán bộ
16. Riêng nhiệm kỳ Đại hội XII, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.091 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đốì với 15.920 tổ chức đảng và 47.701 đảng viên (trong đó có 23.432 cấp ủy viên). Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng BCHTƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý). Các cấp ủy đã giám sát 193.993 tổ chức đảng và 528.652 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã giám sát 124.469 tổ chức đảng và 185.731 đảng viên. Dẫn theo: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T.II, tr.200
17. Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27-3-1990 của BCHTƯ Đảng khoá VI về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”; Nghị quyết số 04 -NQ/HNTW, ngày 14-1-1993 của BCHTƯ Đảng khoá VII về “Những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân”; Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 18-6-1997 của BCHTƯ Đảng khoá VIII về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013 của BCHTƯ Đảng khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của BCHTƯ Đảng khóa XII về “Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc ​và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới”
18. Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25-2-2010 của Bộ Chính trị “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”; Quyết định số 23-QĐ/TW, ngày 30-7-2021 của Bộ Chính trị “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”
19. Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 “Về việc ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”
20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 51, tr. 83.
1. Nhận thức và quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng ĐảngTrước những yêu cầu cấp bách của tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, trên cơ sở kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, từ Đại hội VI của Đảng đến nay, Đảng đề ra và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước; đồng thời Đảng đề ra những quan điểm, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng nhiệm kỳ đại hội Đảng.Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, vượt qua những khó khăn, nguy cơ, thách thức, ngay từ Đại hội VI (1986), cùng với việc đề ra đường lối đổi mới, Đảng đã khẳng định phải

Tin khác cùng chủ đề

Nhiệm vụ cấp bách cần được thực hiện với quyết tâm cao
Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Công tác tuyên giáo với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
          Chuyên gia xây dựng Đảng: 3 điểm mới căn bản nghiêm cấm đảng viên không được làm
Đẩy mạnh thực hành dân chủ, tiếp tục phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước
Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

Gửi bình luận của bạn